Cuộc thi: “Sáng tác Văn học, Nghệ thuật và Báo chí về Đạo hiếu” – năm 2020
Vòng chung khảo
———————
Tác phẩm dự thi: NGƯỜI GIÀ Ở QUÊ
MS 058 Văn xuôi
Lần nào về quê, tôi cũng ghé thăm cô – đơn giản cô là người có nhiều thông tin, không phải cô đặt điều mà cô được mọi người san sẻ thông tin, tìm ở cô lời góp ý. Tôi còn ghé cô vì cuộc đời cô là một câu chuỵên hay.
Chú thím tôi chết bom năm 68, bỏ lại ba đứa con nhỏ. Đứa lớn 6 tuổi, đứa nhỏ chưa bỏ bú. Lúc ấy, cô sang tuổi 20. Từ chối tình yêu, từ chối hôn nhân, cô cưu mang ba đứa, ruộng ít, cô mót lúa mót khoai nuôi chúng khỏi chết đói. Quần áo cô rách không dám may, đau không dám nằm…
Rồi ba đứa có chữ, có nghề, thành ba gia đình, nhà cửa khang trang ở ngay trong vườn của cô. Đến tuổi gần về già, cô bỗng sợ, lo cho ba đứa cháu thành gia thất, còn mình vẫn vào ra một mình. Cô đã hy sinh đời mình làm bóng râm cho các cháu, còn mình, biết dựa vào ai đây? Trằn trọc nhiều đêm, rồi quyết định lo chặng cuối đời bằng việc đi tự túc một đứa con.
Hàng xóm không nỡ trách cô, mà còn vun quén cho cô. Đứa con gái ấy đang học năm thứ ba trưòng đại học sư phạm. Mỗi lần gặp cô, tôi đều nhắc đến chuyện làm răng lo cho nó đủ tiền ăn học, cô thở dài và nói: “Phải ráng thôi” Tôi nhìn gương mặt đã lộ rõ nhiều vết chân chim mà ái ngại cho cô…
Ở quê, nhiều người qua tuổi 60 còn cực lắm. Cô đã nói với tôi như thế, rồi cô kể tên người xóm trên, xóm dưới, có con có cháu, nhưng đâu đã thảnh thơi. Bà Năm sang tuổi 65 còn đi cấy thuê, gặt giúp, còn còng lưng nhổ cỏ, bón phân. Bà Tam ngấp nghé tuổi 70 còn đi lặt đậu, xắt khoai, bà Bảy xin đi sàng gạo dùm ở máy xay xát, kiếm ít hạt gạo rơi…quanh năm không đủ tiền may cái áo mới.
Tôi lấy làm lạ, hỏi cô:
-Chứ thằng con trai đâu?
-Hắn đi làm thợ hồ trong Nam, lâu lâu gửi cho bả ít chục, gọi là cho có, chứ ngó ngàng chi đến bả đâu?
-Thì còn con vợ hắn.
Cô bực, nói xẳng với tôi:
-Mi có rảnh, nằm nghỉ, đừng có hỏi chi cái đồ đó.
Ở quê, gọi là cái đồ là không ra gì, coi như đồ bỏ đi. Tôi tìm hiểu thì biết: Bà Bảy ở chung với gia đình hắn, nhưng vợ chồng hắn coi như không có bà tồn tại, không hỏi lấy một câu, đau rên một mình, con trai, con dâu cũng coi như không chuỵên, có lẽ khi nào bả chết hắn mới sắm cho chiếc chiếu liệm. Bà bảy nói với tôi:
“Phú cho trời con ạ, hắn ở thất đức, sau này, con hắn cũng làm y rứa cho coi” .
Bà Bảy nói có thế, mà con vợ hắn chửi nửa ngày mới thôi, còn ra vào đá thúng đụng nia là chuyện như cơm bữa. Bà Bảy nói:
-Nhịn con ạ.
Nhưng mấy đứa cháu thì bà có con cá , cho, đi chợ, mua khúc mía, kêu cho.
Xem ra có cái gì bất ổn ở quê, cuộc sống khá lên nhưng đạo lý thì giảm xuống, chuỵện mẹ chồng nàng dâu đâu có mới, nhưng xem ra mỗi ngày một biếng tướng. Con gái về nhà chồng không chịu làm dâu và mẹ chồng cũng không bắt phải làm dâu, nhưng lớp sau đối với lớp trứoc nhạt như vậy thì còn gì không khí gia đình, còn gì hai chữ đầm ấm đây?. Còn gì hiếu đạo đây?.. Mấy người già tôi gặp đều rơi vào cảnh có con mà như không, cô đơn ngay trong nhà mình. Trách nhiệm này thuộc về ai.
Hỡi những đứa con chỉ biết lo riêng nhà mình? Hãy suy nghĩ về hai chữ hiếu thảo đi kẻo muộn
Tôi về nhà bà thím, thấy thím đang còng lưng sửa, chăm mấy luống cải, lá không xanh, dưòng như cây cũng thiếu chất…
Thím nói với tôi: :
-Người không có ăn, huống chi cây, thôi được chi hay nấy, chứ biết làm răng.
Một câu than… làm tôi nhói tận ruột. Tôi đặt vào tay thím một ít tiền để khi có đám thím có cái mà đi. Thím ứa nước mắt, xem ra tủi thân thì phải.
Tôi biết người già gan lỳ lắm, nhưng khi đụng vào chỗ đau, thì khóc cả ngày, ai dỗ cũng không nín. Nhìn gương mặt thím tôi, da mồi, mắt mờ, chân tay teo tóp, thế mà vẫn ra đồng lượm củi, lượm rác, tìm cái ăn cho mình.
Tôi lên xóm rừng, thăm bà Tư- ngưòi mẹ liệt sỹ ở trong căn nhà tôn, thấp và nóng. Bà sống lẻ loi trong sự túng bấn, tiền trợ cấp cho bà cũng chỉ đủ ăn, nhưng chẳng kêu ca. Lạ thật, người già ở quê chẳng ai than mình nghèo mình cực, dường như cái sự được mất ở đời các bà xem nhẹ chỉ cố giữ tấm thân cho đến khi trời gọi là đi, không đòi hỏi ở con cái điều gì… Bữa cơm của người già ở quê giống như ba mươi năm về trước. Môt ít mắm, một vài cọng rau luộc và lưng nồi cơm… Bà Tư nói với tôi:
-Người chết nuôi người sống con ạ.
Câu này, chợt nhói lên trong tôi cái ray rứt đến ứa nước mắt.. Còn nhiều trưòng hợp khác thì Trời nuôi chứ bầy con có ai nuôi đâu? Trời mưa, tôi thấy ngưòi già khoát tấm ni lông đã sờn, đã rách, cứ thế mà đi ra mưa…Giống như cha mẹ tôi ba mươi năm về trước, đội cái tơi , ra đồng…
Tôi cũng chứng kiến một vài ngưòi già trong làng, có con ở xa, khi về, mua cho cha mẹ ít quà để báo hiếu, mà quà chi, các bạn biết không? Thịt bò tái…
Già, ăn kham khổ, khi nhận sự báo hiếu của con, cả đêm báo đời bà đi tháo đến ..rụng chân. Những món quà đóng hộp, những thứ ngươì già chưa thấy, họ không nhận bởi ăn không quen. Tôi lấy làm lạ, cho những đứa con quên mất cha mẹ mình là ai mà đi báo hiếu kiểu đó, cứ nghĩ mình ăn đựoc, cha mẹ ăn cũng đựoc, mà quên đăc điểm người già. Báo hiếu kiểu đó cũng bằng làm khó cho người già..Có lẽ đây là kiểu đặc trưng cho sự quan tâm của lớp trẻ ngày nay.
Tôi trăn trở suốt đêm- chợt nhớ đến câu dân ca xử Quảng:
Bạn về, nằm nghỉ, gác tay,
nơi mô ân trọng nghĩa dày cho..bằng ta.
Tôi nhại ra: Nơi mô khổ cực cho bằng ..ở quê.
——————————-
Tác giả dự thi: Cao Kim
Địa chỉ: 17 Nguyễn Đức Cảnh, phường Tân An, TP.Hội An, tỉnh Quảng Nam