Tư tưởng triết học Ngô Thì Nhậm hình thành và phát triển gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII, cùng với đó là sự kế thừa những quan điểm của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang và tư tưởng của Tống Nho cũng như ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng của cha mình là Ngô Thì Sĩ. Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm thể hiện rõ ba phương diện cơ bản của triết học là bản thể luận, nhận thức luận và triết lý nhân sinh xã hội với những nét độc đáo khác nhau, tạo nên một tư duy mới cho dòng tư tưởng lúc bấy giờ.
Phật giáo Đại Việt đời Trần với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một Phật giáo nhất tông, mang đậm bản sắc Việt, chủ trương nhập thế, tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo, có sự dung hợp và Việt hóa ba hệ tư tưởng Phật – Nho – Lão. Tinh thần dung hợp và Việt hóa ấy của Thiền phái Trúc Lâm, đến cuối thế kỷ XVIII đã được danh nhân Ngô Thì Nhậm và các học giả xiển dương trong tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh. Trong các danh nhân văn hóa Việt Nam, Ngô Thì Nhậm là người duy nhất biểu đạt tư tưởng một cách có hệ thống theo chủ định. Tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh của ông là sự chiêm nghiệm nghiêm túc và bao quát cả hai hệ tư tưởng cổ đại lớn của nhân loại, Nho giáo và Phật giáo. Qua nhiều thế kỷ chịu ảnh hưởng bởi hai hệ tư tưởng trên, dù nước ta có nhiều nho sĩ, nhiều thiền sư, nhưng tới thời Ngô Thì Nhậm vẫn chưa có ai dám tham vọng làm nghiên cứu một cách có hệ thống được như ông, dù chỉ tập trung vào một trong hai hệ tư tưởng nói trên. Việc so sánh đối chiếu, tìm ra các mấu chốt tương đồng, tương phản, thì lại càng không có. Vì vậy, Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh thực sự là tác phẩm vừa độc đáo, vừa có tham vọng tri thức lớn, rất cần được nghiên cứu chuyên sâu.
I/ Bối cảnh lịch sử nền văn học Phật giáo Việt Nam cuối thế kỷ 18
Sự manh nha của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên xuất hiện ở Giao Châu (Việt Nam) vào khoảng thế kỷ thứ II, nhà Phật học lừng danh Mâu Bác (Mâu Tử) với tác phẩm kinh điển Lý hoặc luận là đại biểu. Quan điểm của ông là mặc dù Tam giáo có một số chủ trương mới nhìn thì thấy rất khác biệt, vì lý do xuất xứ, không gian và thời gian, nhưng sự khác nhau đó chỉ thuộc về phương tiện, chứ cứu cánh vẫn đồng nhất: “Châu dư dị lộ, câu tứ hành dã” (Thuyền – xe không đi chung đường, nhưng đều đưa người đến chốn)[1].
Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên được kế thừa và liên tục phát triển qua nhiều thời đại bởi nhiều giới thức giả, từ Thiền sư, Đạo sĩ, Nho sĩ cho đến vua, quan, như: Thiền sư Viên Chiếu, vua Lý Nhân Tông, vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung thượng sĩ, Thiền sư Hương Hải, nhà Nho bác học Lê Quí Đôn, hai cha con nhà Nho sùng Phật và Đạo Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, rồi Phan Huy Ích, tể tướng Trịnh Tuệ, Thiền sư Toàn Nhật, sĩ phu Nguyễn Đình Chiểu, sư Giác Lâm,… Trần Thái Tông lý giải sự tương đồng của Phật – Đạo – Nho về mặt tích đức, hành thiện như sau: “Nho điển thi ân báo đức, Đạo kính ái vật hiếu sinh, Phật duy giới sát thị trì (Sách Nho dạy thi ân bố đức, kinh Đạo giáo dạy yêu mọi vật, quý sự sống, đạo Phật dạy giữ giới không sát sinh)[2]. Thiền sư Hương Hải luận chỗ giống nhau của Phật, Nho ở sự thâm sâu, uyên áo bằng hai câu thơ đầy hình tượng:
Nho nguyên đãng đãng đăng nhi khoát.
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.
(Rừng Nho bát ngát vào thêm rộng.
Biển Phật mênh mông tới càng sâu)[3]
Thiền sư Toàn Nhật bày tỏ tư tưởng Tam giáo nhất gia, chúng hỗ tương lẫn nhau làm lợi ích cho cuộc đời trong Hứa Sử truyện vãn như sau:
“… Nho ra sửa trị đời nên thanh bình, Thích ra độ tử cứu sinh, Đạo ra tẩn diệt mị tinh yêu tà, Thánh hiền phân chế làm ba, Tam giáo so lại nhất gia khác gì…”[4].
Nhưng có một sự thật không thể không quan tâm là giai đoạn vàng son nhất của thời kỳ phong kiến Việt Nam với những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực như văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, thương mại,… nhất là, tinh thần hào hùng của thời đại và nhân cách siêu việt của những đứa con tinh thần trong thời đại đó, được hầu hết các sử gia công nhận đó là thời Lý – Trần. Thời này, tư tưởng Tam giáo (Phật – Đạo – Nho) ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp xã hội, trên từ vua, quan và các tầng lớp thức giả, dưới cho đến thứ dân. Vấn đề ở chỗ, mặc dù lúc này tư tưởng chính thống của xã hội là tư tưởng Tam giáo nhưng trung tâm điểm vẫn là tư tưởng Phật giáo. Lời của Thiền sư Trí Thiền thể hiện rõ điều đó: “Như Lai lục ngữ cái bất hư thuyết. Thế gian chư pháp hư huyễn bất thực, duy đạo vi thực, ngã phục hà cầu. Thả Nho gia khả thuyết quân thân phụ tử chi đạo, Phật pháp khả ngôn Bồ tát, Thanh văn chi công. Nhị giáo tuy thù, kỳ quy tắc nhất. Nhiên, xuất sinh tử, nhược đoạn hữu vô kế phi Thích tắc bất năng dã”. (Lời nói của Như Lai chẳng phải là lời nói suông. Các pháp ở trên thế gian này đều là hư ảo, không thực, chỉ có đạo mới là thực, ta còn cần gì nữa; vả lại, Nho gia nói đạo vua tôi, cha con; Phật pháp nói về công đức của các vị Bồ tát, Thanh văn. Hai tôn giáo tuy có chỗ khác nhau nhưng quy về một mối mà thôi. Chỉ là, muốn vượt qua nỗi khổ sinh tử, dứt khỏi sự cố chấp hữu vô, ngoài Phật giáo ra thì không thể nào đạt được)[5]. Từ khoảng nửa cuối thế kỷ XIV về sau, những nhân sĩ của Nho gia dần dần chiếm vị trí quan trọng trên chính trường, Nho giáo ngày càng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, tình cảnh nước ta vô cùng đen tối, các thế lực phong kiến xâu xé lẫn nhau, nội chiến liên miên giữa các thế lực của nhà Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại các thế lực phong kiến, đã làm cho nhân dân khốn khổ, cơ cực không bút mực nào tả xiết. Lúc này tư tưởng Tam giáo vẫn ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. Nếu ở đời Trần, tư tưởng Tam giáo lấy Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm làm chủ đạo, thì thời kỳ này Nho giáo lại là hạt nhân của tư tưởng Tam giáo, điển hình là tác phẩm luận thuyết triết học Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh với xu hướng Tam giáo đồng nguyên của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Phải chăng, chính sự khinh hay trọng tư tưởng Phật hoặc Nho là một trong những nguyên nhân dẫn đến hưng hay suy của dân tộc.
II/ Giới thiệu tác giả tác phẩm “Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh”
1/ Tác giả Ngô Thì Nhậm
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) là danh sĩ, nhà văn, nhà tư tưởng đời Hậu Lê – Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh tan quân Thanh. Ngô Thì Nhậm xuất thân từ gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, (tục gọi là làng Tó), trấn Sơn Nam (nay là xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, Hà Nội). Thuở nhỏ, ông tên là Phó, sau đổi là Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên. Ông là người thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông đỗ khoa sĩ vọng năm 1769, rồi tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê – Trịnh, được chúa Trịnh Sâm quý mến. Năm 1778, ông được bổ làm Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên. Khi đó, cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.
Sau vụ án năm Canh Tý (1780), Ngô Thì Nhậm bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải, nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình lánh nạn. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh “cầu hiền”. Danh sĩ Bắc Hà đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỉ, Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ khác, như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch; các tiến sĩ, như Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan, Đồn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Phạm Huy Lượng… sau này đã lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn.[6]
Cuối năm Mậu Thân (1788), do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê, Ngô Thì Nhậm đã hiến kế giúp vua Quang Trung lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng quân Thanh của nhà Tây Sơn. Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Ngô Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.
Sau khi Quang Trung mất (năm 1792), Ngô Thì Nhậm không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học. Gia Long tiêu diệt được nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích bị đem ra kể tội và đánh đòn tại Văn Miếu. Ngô Thì Nhậm qua đời tại quê – làng Tó, Tả Thanh Oai, đó là ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi tức ngày 7 tháng 4 năm 1803.
Tuy chỉ hưởng thọ 57 tuổi, nhưng Ngô Thì Nhậm đã có nhiều cống hiến cho dân tộc. Đặc biệt, ông đã để lại một kho tàng văn thơ có giá trị cho những người đời sau học hỏi và nghiên cứu. Ở đây, có thể kể đến một số tác phẩm lớn của Ngô Thì Nhậm về văn, thơ và phú.
Về thơ, Ngô Thì Nhậm có một số tập thơ nổi tiếng, như Bút Hải Tùng Đàm, Thủy Vân Nhàn đàm (Thủy vân nhàn vịnh), Ngọc Đường Xuân Khiếu, Cúc Hoa Thi Trận, Thu Cận Dương Ngôn, Cẩm Đường Nhàn Thoại, Hy Doãn Công Thi Văn Tập, Hoàng Hoa Đồ Phả, Sứ Trình Thi Họa, Yên Đài Thu Vịnh. Về phú, ông có 17 bài chép ở tập Kim Mã Hành Dư. Về văn, ông có một số tác phẩm lớn, như Hàn Các Anh Hoa, Bang Giao Hảo Thoại, Xuân Thu Quản Kiến, Kim Mã Hành Dư và đặc biệt, Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh được coi là tác phẩm thể hiện nổi bật nhất tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm. Ông viết Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh với ý muốn xây dựng thành kinh sách để thuyết pháp, trong đó nội dung thể hiện rõ sự kết hợp giữa Nho, Phật và Lão, nhằm kế tục Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Do vậy, người ta gọi ông là Tổ thứ tư của Thiền phái Trúc Lâm.
2/ Tác phẩm “Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh”
Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh được Ngô Thì Nhậm và đạo hữu hoàn thành tại Trúc Lâm thiền viện, thuộc phường Bích Câu, kinh đô Thăng Long vào năm 1896. Đây là một tác phẩm thuộc thể loại luận thuyết triết lý tôn giáo. Về nhan đề tác phẩm, bên cạnh nhan đề Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là tên gọi chính thức, thì tác phẩm này có khi được gọi là Đại Chân Viên giác Thanh, bởi gọi theo phần chính văn của tác phẩm, hay các tên khác: Nhị Thập Tứ Thanh, Nhị Thập Tứ Chương Kinh, Kinh Viên Giác.
Về diện mạo kết cấu và các tác giả của tác phẩm thì Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh có cấu trúc hơi lạ, bởi ngoài bài tựa mang tên Trúc Lâm Đại Chân Viên Giác Thanh tự do Bảo Chân đạo nhân Phan Huy Ích (em rễ của Ngô Thì Nhậm) viết, thì nội dung gồm các phần Thanh dẫn, Chính văn, Thanh chú và Thanh tiểu khấu. Thanh dẫn là phần dẫn dắt giới thiệu chung, do Hải Huyền tăng Ngô Thì Hoàng (em trai của Ngô Thì Nhậm) viết. Chính văn là phần chính gồm 24 thanh, có tên Đại Chân Viên Giác Thanh, mang tư tưởng cốt lõi của tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, do Ngô Thì Nhậm viết. Thanh chú là phần chú thích, giảng giải các thanh do Hải Âu hòa thượng Vũ Trinh và Hải Hoà tăng Nguyễn Đăng Sở viết (hai vị này là bạn của Ngô Thì Nhậm). Thanh tiểu khấu là phần tóm tắt yếu chỉ của các thanh, do Hải Điền tăng Nguyễn Đàm viết. Phần sau tác phẩm còn có Nhị thập tứ thanh phối khí ứng sơn chi đồ (Biểu đồ 24 thanh phối với các tiết trong năm), Tướng thanh nhị thập tứ bồ tát (Bộ mặt, bản chất của 24 thanh). Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh tông (Đầu mối, điều kiện làm nên Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh), và Tam Tổ Hành Trạng (Hành trạng của ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm). Có lẽ, do Ngô thì Nhậm viết phần Chính văn để xiển dương tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm nên ông được đệ tử và các học giả tôn vinh là Đệ Tứ Tổ của thiền phái Trúc Lâm.
Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là tác phẩm cuối cùng của Ngô Thì Nhậm, là kết tinh chín muồi về tư tưởng lẫn bút pháp nghệ thuật của danh sĩ này. Nói như kiểu nhà Thiền, thì tác phẩm này giống như “bài kệ truyền pháp” của các thiền sư lúc sắp viên tịch. Bởi vì, tất cả những gì tinh tuý nhất cũng như cả tâm huyết và kỳ vọng của cả một đời tác giả đều gửi gắm hết vào đây.
III/ Tinh thần “Khu Thích Dĩ Nhập Nho – Cư Nho Mộ Phật” trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh
1/ Giáo lý chân truyền của Thiền phái Trúc Lâm
Nội dung tư tưởng của tác phẩm thể hiện rõ ở nhan đề sách “Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh”. Chúng ta có thể hiểu một cách khái quát là: Giáo lý chân truyền của thiền phái Trúc Lâm. Chữ Thanh có nghĩa là lời nói, ở đây chỉ giáo lý, học thuyết. Nhan đề tác phẩm có chủ đích là xiển dương tinh thần của Phật giáo Thiền tông Trúc Lâm Yên Tử do Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, nhưng nội dung tư tưởng của tác phẩm là hướng đến sự dung hợp tư tưởng Phật – Đạo – Nho trên quan niệm Tam giáo đồng nguyên. Cụ thể hơn là tư tưởng cốt yếu trong các bộ kinh đại thừa Phật giáo như: Kim cương, Viên giác, Bát nhã, Lăng già, Pháp hoa, Hoa nghiêm và các bộ kinh sách quan trọng của nhà Nho như: Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử), Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu) được tác giả khai thác một cách hữu hiệu nhằm luận giải sự tương quan nhất trí giữa Phật và Nho. Có thể thấy những cốt lõi tinh túy của cả ba hệ tư tưởng Phật, Đạo, Nho đều được tác giả thể hiện trong tác phẩm. Những tư tưởng uyên áo và hàm súc đó được truyền tải và thể hiện bằng những hình tượng nghệ thuật giàu sức thuyết phục, qua một nghệ thuật ngôn từ tuyệt diệu, bút pháp đạt đến mức tinh tế như hoán dụ, thậm xưng, ẩn dụ, so sánh, sử dụng điển cố, điển tích v.v.. Chẳng hạn như phần thuyết giảng về lý và dục của tác giả trong chương Không thanh ở Chính văn.
Trước hết, cách lý giải mới của Ngô Thì Nhậm thể hiện ở hai phạm trù quan trọng trong tư tưởng Phật giáo cũng như của Nho là “Lý” và “Dục”. Từ điển Phật học Huệ Quang định nghĩa về “Lý” như sau: “Lý” là đạo lý, tức phép tắc làm tiêu chuẩn cho sự tồn tại biến hoá của tất cả sự vật; là lý tính, tức là lý chân thật bình đẳng nhất như, là bản thể của vạn tượng sai biệt. Lý có hai đức tuỳ duyên và bất biến, tức là tuỳ duyên mà biến hoá ra vạn pháp sai biệt, nhưng tính của nó vẫn thường trụ bất biến. Vì nó vượt ra ngoài tri thức tương đối của phàm phu, cho nên không thể dùng ngôn ngữ văn tự để biểu hiện”[7].
Khi bàn về “Lý”, nhà Phật thường xem xét dưới góc độ lý thuyết, triết lý (tức là ngược lại với “Sự” là thực hành, thực hiện). Phật gia nói “Lý Sự viên dung” nghĩa là lý thuyết và thực hành đều đầy đủ trọn vẹn. Tìm hiểu về “Lý” nghĩa là tìm ra bản chất của vạn vật, thực tướng của vạn pháp nói chung, bản lai tự tính của con người nói riêng. Đây là vấn đề quan trọng nhất của bản thể luận và cũng là mấu chốt quan trọng nhất của giải thoát luận trong Phật giáo. Con người chỉ giải thoát khỏi khổ đau khi đã triệt ngộ về “Lý”.
Theo nhà Phật, “Dục” là một trong những nguyên nhân chính dẫn con người đến con đường khổ đau. “Dục” là ham muốn, thuộc về Tham trong Tam độc (Tham, Sân, Si). Có rất nhiều loại “Dục”, nhưng nhà Phật chia ra thành năm thứ chính (Ngũ Dục) bao gồm: Tài dục (ham muốn tiền tài), Sắc dục (ham muốn sắc đẹp), Danh dục (ham muốn danh lợi), Thực dục (ham muốn ăn ngon, ăn nhiều), Thụy dục (hoặc Thùy dục, tức ham muốn ngủ nhiều). Trong năm thứ này Sắc dục (tham đắm sắc đẹp) là thứ dễ làm mê lòng người nhất, cũng là thứ mà người tu đạo khó vượt qua nhất.
Khi người học đạo hỏi thế nào là Lý ? thế nào là Dục? Ngô Thì Nhậm trả lời: “Lý giống như lý lẽ của cây có đốt; Dục như nước muốn chảy xuống, như lửa nóng bốc lên”[8].
Xưa nay, khi đề cập đến Lý, nhà Phật thường luận về thể tính, và phương pháp tu tập nhằm đi đến giác ngộ Lý tính; đề cập đến Dục là chỉ ra nguồn gốc và phương pháp xa rời và đoạn diệt tham Dục. Hãy nghe lời Phật dạy về nhiệm vụ của người xuất gia: “Những người xuất gia phải cắt đứt dục vọng, xả bỏ ái dục, nhận biết nguồn tâm, hiểu thấu giáo lý Phật, tỏ ngộ pháp vô vi”[9]. Còn Ngô Thì Nhậm thì góp phần làm rõ về Lý, Dục bằng cách chỉ ra hình thức, đặc tính và quá trình biểu hiện của hai phạm trù này với câu trả lời hết sức hàm súc. Theo tác giả, bản năng (thuộc về dục) của con người là một trong những dấu ấn của nghiệp và nó hoạt động có quy luật, nếu không hiểu thì rất khó chuyển hoá. Người tu học, một khi thấu rõ được quy luật của nó thì sẽ tìm ra phương pháp đối trị hợp lý. Ngô Thì Nhậm đã chỉ ra quy luật của Dục: Dục như nước chảy xuống, như lửa bốc lên. Và ông còn đưa ra phương thức đối trị với Dục: “Không cắt đứt thì đứt, muốn cắt đứt thì lại không đứt. Nước chảy cuồn cuộn, chảy đi thì cạn. Dập lửa lốm đốm, dập thì bùng lên”[10].
Trước đây, chỉ nghe nhà Nho nói đến khái niệm Nho quân tử và Nho tiểu nhân, chưa từng nghe nhà Phật bàn về quân tử và tiểu nhân. Bởi vì chủ trương Trung Đạo của nhà Phật cho rằng, đi vào hướng phân tích nhị nguyên, đối đãi thì càng xa rời tự tính thanh tịnh, không có lợi cho con đường tu hành giải thoát. Ngô Thì Nhậm mạnh dạn đưa ra cách giải thích mới về Thích quân tử và Thích tiểu nhân trong sự đối sánh với khái niệm Nho gia: “Nho thì có Nho quân tử, Nho tiểu nhân; Thích thì có Thích quân tử, Thích tiểu nhân. Nho quân tử thì vị kỷ, Nho tiểu nhân thì vị nhân. Thích quân tử thì vị nhân, Thích tiểu nhân thì vị kỷ. Nhà Nho bàn về chữ “kỷ” và chữ “nhân” là nhìn nhận về mặt tâm tính. Thích quân tử xả “kỷ” để cứu vớt người. Thích tiểu nhân doạ người để nuôi mình. Đứng về mặt “Lý” và “Dục” mà phân chia, thì chữ “nhân” và chữ “kỷ” của đàng này (nhà Phật) so với chữ “nhân” và chữ “kỷ” đàng kia (nhà Nho) công phu tác dụng tuy không giống nhau nhưng qui kết lại về tâm tính, thì chỉ một mà thôi. Vì vậy cho nên nhà Nho nói “chính tâm”, “thành tính”; nhà Phật nói “minh tâm”, “kiến tính” đều là nói: Đạo người quân tử rộng khắp mà kín đáo”
Đứng về mặt Lý (tức là mặt tu tâm) mà xét thì vị kỷ (vì mình) mới là quân tử, còn vị nhân (vì người) là tiểu nhân. Nhưng từ góc độ Dục (ham muốn) mà nhìn thì vị kỷ là tiểu nhân, còn vị nhân là quân tử. Khổng Tử nói: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân.” (Điều mình không muốn thì đừng áp đặt cho người khác)[11]. Qui Sơn Đại Viên thiền sư nhấn mạnh bổn phận của người xuất gia tu theo Phật: “Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức.” (Bản thân mình thì gắng công tu tập, Đối với người ngoài thì dùng cái đức không tranh hơn thua)[12]. Thấu rõ điểm này mới thấy sự trải nghiệm sâu sắc và cách giải thích chí lý của Ngô Thì Nhậm.
2/ Dung hòa nghĩa bình đẳng và đại đồng
Hòa trong quan niệm Tam giáo đồng nguyên là xu hướng “Khu Thích dĩ nhập Nho” “Cư Nho mộ Phật” (tức đưa tư tưởng triết học Phật gia vào Nho gia hay sống trong Nho nhưng có Phật) trong tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh được Bảo Chân đạo nhân Phan Huy Ích khẳng định trong Đại Chân Viên Giác Thanh tự như sau: “Thuyết tân thanh của ông, bọn tục Nho nghe thấy chắc sẽ đâm ra nghị luận, mà ví ông như Xương Lê (Hàn Dũ) trước thì bài Phật, sau lại nghiêng theo. Tượng Sơn (Lục Cửu Uyên) chủ trương tịnh chính là bắt gốc ở đạo Thiền. Đem những lời ức đoán tầm thường như thế để phẩm bình ông thì làm sao mà đánh giá được sở học của ông! Tận tính nhi cùng lý, khu Thích dĩ nhập Nho, ông đã khiến cho tám bộ Phạn vương (Phật) không ra ngoài cung của Tố vương (Khổng Tử).
Phan Huy Ích còn luận giải rõ: “Đạo lớn phát ra tự trời, lưu hành khắp vũ trụ, phân tán thành vạn vật. Cái thể thì đồng, nhưng cái dụng thì dị. Đồng là gốc, còn dị là ngọn, xem bề ngoài thì tưởng như khác đường khác nẻo, nhưng thống hội lại cho đến chỗ cực kỳ tinh vi thiết yếu thì chẳng có gì là vượt ra ngoài đạo lớn kia được. Giáo lý của Thích Ca tuy nói là không tịch hư vô, nhưng đại yếu vẫn là trừ bỏ hết mọi chướng lụy, thấy rõ Chân như. Cho rằng minh tâm kiến tính là việc cần kíp nhất, nếu đem so sánh với học thuyết thành ý trí tri của nhà Nho ta thật chẳng có gì trái ngược”[13].
Tăng sĩ Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở phân tích chỗ tương đồng của Nho và Phật từ góc độ dùng lý thuyết của Nho gia để lý giải Phật giáo như sau: “Vạch cái lý huyền diệu, mở cái tâm sâu kín để trỏ cho người ta, ấy là công việc thứ nhất của Thiền gia. (Thế mà) Phải dùng luận thuyết của nhà Nho để luận thuyết điều đó, là vì đạo chỉ có một mà thôi. Chỗ huyền diệu của Nho tức Thiền, chỗ tác dụng của Thiền tức là Nho. Gạt bỏ văn từ kỹ xảo (Nho) và giới hạnh tầm thường (Phật) mà tìm cái gọi là đạo, thì (Nho và Phật) có thể nhất quán được”[14]. Cái lý có thuận, có nghịch không thể noi theo hết thảy được không khác gì cây Ưu đàm tương truyền không có hoa mà:
“Ưu đàm ra hoa,
Giáng sinh Di Đà,
Xuất thế Thích Ca”[15].
Ngô Thì Nhậm dung hòa cái nghĩa bình đẳng của Phật gia vào cái nghĩa đại đồng của Nho gia: “Khổng Tử tịch tĩnh bất động, nhưng có tác dụng với sự cố trong thiên hạ. Đại Thế Chí Bồ tát vào trong vô lượng nghĩa, ở trong tam muội, thân tâm bất động, phóng ánh sáng bạch hào nơi lông mày chiếu rọi một vạn tám nghìn thế giới ở Đông phương khắp hết mọi chỗ, như thế gọi là Pháp gia… Ta nghe Khổng Tử nói ‘chim muông ta không thể cùng bầy được, nếu không bạn bè với người thì ta còn bạn bè với ai?’. Kinh Liên Hoa nói rằng ‘Ta xem hết thảy bình đẳng, không có lòng yêu này ghét nọ. Ta không tham cái gì, cũng không có cái gì hạn định và trở ngại ta cả’. Đó là cái nghĩa đại đồng của Nho gia”[16].
Nhà Phật nói chúng sinh bình đẳng trong tính bản thể với ý nghĩa tuyệt đối bao gồm Phật, Trời, Thần, Thánh, người, và muông thú. Phàm các loài hữu tình có mạng sống, biết khổ đau đều là chúng sinh theo lý nhà Phật. Lý bình đẳng dựa trên cơ sở “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật”[17]. Khả năng thành Phật chính là nền tảng vững chắc nhất, mang giá trị nhân văn cao nhất, với ý nghĩa tuyệt đối nhất về sự bình đẳng vô giới hạn giữa mọi chúng sinh. Trong khi Khổng Tử chỉ nêu lên tính đại đồng giữa người và người, loại biệt chim muông ra khỏi tính này. Bình đẳng không phải là không phân biệt Có, Không, Thiện, Ác, Đúng, Sai…
Trong chương Nhất thanh, phần thanh dẫn, Hải Huyền Ngô Thì Hoành dung hợp Nho và Phật trong nghĩa chữ Nhất: “Nhất là tinh chất, không tạp, hợp tất cả muôn việc trong thiên hạ lại làm một. Ý nghĩa ấy bao gồm rất rộng. Thái Cực tóm âm dương lại làm một, Âm Dương tóm ngũ hành lại làm một. Đạo lý vần xoay, đi đâu chẳng phải là một (Nhất). Nhà Nho nói: ‘Lý không có hai bên cùng phải’ không có hai phải tức là Nhất (một). Thích có bất nhị pháp môn, bất nhị cũng là Nhất (một). Nho có cái gọi là nhất cá lý, Thích có cái gọi là nhất thiết pháp, nhất nọ với nhất kia đều là Nhất cả. Vì vậy cho nên làm Hoàng đế, làm Vương bá, cũng là một Nho ấy, làm Thánh thần, làm Ma quỷ cũng là một Thích ấy, làm Nho hay làm Thích cũng là một đạo ấy. Đạo ở trong trời đất, chia ra thì có muôn khía cạnh khác nhau, tóm lại thì không có hai khía cạnh. Chương này đem Nho và Thích đúc lại làm một, đó là chỗ tâm đắc và nhất quán của Đại thiền sư, phát huy nó ra làm một trong hai mươi bốn thanh, là một áng văn chương cao cả, một pho nghị luận lớn lao, nào phải lấy ống hóp mà nhìn, lấy vỏ hến mà đong được… Trời được cái nhất cho nên trong, đất được cái nhất cho nên an, Thánh nhân được cái nhất mà thiên hạ hòa bình”[18]
Từ những nhận xét như trên mà đưa ra một kết luận khẳng định như vậy, e rằng chưa thuyết phục và hơi khiên cưỡng, bởi lẽ, cho dù Phật – Đạo – Nho có những điểm tương đồng ở sự thanh tâm, dưỡng tánh, tu nhân, tích đức, làm lành, lánh dữ,… nhưng trên bình diện tư tưởng triết học có nhiều điểm dị biệt.
3/ Ứng dụng triết lý nhà Phật vào Nho gia
a/ Luân hồi của nhà Phật và lẽ tuần hoàn của nhà Nho
Ngô Thì Nhậm cố gắng luận giải chỗ tương đồng giữa thuyết Luân hồi của nhà Phật và lẽ Tuần Hoàn mà nhà Nho đề cập đến: “Luân (cái bánh xe) cho nên Hồi (xoay vòng), cũng như nhà Nho nói Tuần Hoàn, vì Hoàn (cái vòng) cho nên Tuần (ven theo), không phải cái vòng thì không xoay. Nhà Phật nói Luân (cái bánh xe), nhà Nho nói Hoàn (cái vòng). Luân và Hoàn là đạo trời vậy… Tròn là cái thể của trời, nhật, nguyệt, ngũ tinh đều tròn, cho nên chu lưu, vận hành được. Thích Ca Mâu Ni chuyển cái bánh xe Vô Ngại, Khổng Tử đi xe vòng quanh các nước. Đi xe vòng quanh tức cũng là luân hồi… nhà Nho có chữ Biến Thông, Cảm Thông, Hội Thông; nhà Phật có chữ Thần Thông, cùng một nghĩa như nhau”[19]
Luân hồi là một phần quan trọng trong giáo lý Phật giáo. Thuyết luân hồi của nhà Phật chủ yếu đề cập đến vấn đề mọi chúng sinh sau khi chết, tuỳ theo hành nghiệp thiện hay ác của chính bản thân họ mà sau này sẽ tái sinh vào cõi tốt hay xấu. Nghiệp (hành động tạo tác) là nhân tố quyết định sự tốt hay xấu của cuộc sống sau khi tái sinh. Nhà Phật cho rằng, chúng sinh do si mê, từ thân miệng ý tạo ra nhiều nghiệp ác, nên theo luật nhân quả phải luân hồi trong các đường xấu ác, chịu khổ, không bút mực nào tả xiết. Chỉ có tu hành theo con đường giác ngộ của Phật, chấm dứt tất cả các việc làm ác, siêng làm tất cả các việc tốt, ngộ được bản tính, thấu rõ bản chất của mọi sự vật hiện tượng, mới thoát khỏi luân hồi sinh tử, đạt được an vui tịch diệt. Tức là thuyết luân hồi nhà Phật chú trọng ở các khía cạnh liên quan đến các vấn đề nhân quả, nghiệp báo và tái sinh. Ngô Thì Nhậm thì triển khai theo vấn đề này theo hướng thực tiễn: “Một năm có cái luân hồi của một năm, một tháng có cái luân hồi của một tháng, một ngày có cái luân hồi của một ngày. Còn Khổng Tử thường không trả lời những câu hỏi có liên quan đến con người sau khi chết, ông cho rằng việc sống còn chưa biết hết, làm sao nói đến việc chết.
b/ Triết lý giải thoát – Niết bàn – Tịch diệt
Niết bàn là Tịch Diệt, mục đích của sự giải thoát. Tịch Diệt và vắng lặng. Tịch là sự bất động của tâm, là sự làm chủ hoàn toàn của tâm. Ngô Thì Nhậm nói:
“Chuông trống ở trước mặt mà tai không loạn, lụa là trước mắt mà mắt không mờ, muôn ngàn ngựa trước mặt mà tâm không động, ấy là Tịch. “còn Diệt? Diệt là sự dứt hết cái “tính người”. Ngô Thì Nhậm nói: “Ðối với đa số, cái tính trời khó làm hiển lộ cái tính người khó làm tiêu diệt cho hết. Nếu tính người mà diệt, thì mọi cảm nghĩ đều vắng lặng mà cái nhất chân tự lộ” (nhất chân tự như). “Tính người” ở đây là phiền não, mà “tính trời” là Bồ Ðề; “nhất chân tự như” tức là chân như.
Tác giả Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh ví chân như với tiếng kêu của chim Phượng Hoàng, là âm luật nơi cây đàn không dây của Ðào Uyên Minh: “Chim Phượng Hoàng thường không kêu, nhưng khi kêu lên thì tất phải làm cho người ta kinh sợ. Ðứng lúc chưa kêu đó tức là Tịch Nhiên Vô Thanh. Nhưng cái tiếng làm cho người ta kinh sợ kia thực đã uẩn súc trong lúc nó không kêu vậy. Cây đàn của Ðào Uyên Minh không kêu mà vẫn tự đắc ở ngoài âm luật, bởi vì ý của âm luật là chỉ có thể do sự không dây mà có chứ không có thể do tiếng đàn mà có”.
Hải Âu nói: “Huyền diệu thay hai chữ tịch diệt, không huyên náo thì làm sao tịch? Không sinh khởi thì làm sao có diệt? Huyên náo và sinh khởi là Tính người, mà tịch diệt là tính trời, so với nhân tâm và đạo tâm giống nhau. Mừng giận vinh nhục khua rồi ở trong tâm, đó là chướng ngại của tính người vậy. Nay nếu diệt được tính người thì tính trời tự khắc hiển lộ hoàn toàn. Tính trời hiển lộ hoàn toàn là định. Ðịnh chính là Tịch Diệt”[20].
Làm thế nào để giải thoát, đạt đến Tịch Diệt? Trong chương 11 của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh nói về Thuyết thanh, Ngô Thì Nhậm nói rằng phương pháp của Nho là tinh nhất, còn phương pháp của Phật là tinh tiến. Giải thoát, tức là giải thoát ra khỏi ngục tù của hỗn muội tối tăm. Ngục vô minh khó phá chứ không phải như những ngục tù của thế gian. Ngô Thì Nhậm nói: Vua Ðế Thuấn dùng phép tinh tiến để phá ngục ấy. Phật Thích Ca dùng phép tinh tiến để phá ngục ấy. Về sau, Nhan Hồi dùng phép “khắc kỷ”, Ðại Tuệ dùng phép “sát hại” để phá, tựu trung công phu cũng đều ở một chữ tinh. Tinh lực dùng để phá địa ngục là một bảo kiếm kim cương. Ngô Thì Nhậm dùng chữ Thuyết làm đề tài cho chương này, vì chữ Thuyết còn được đọc là Thuế, và có nghĩa là cởi lột, giải thoát. Bí quyết của giải thoát là “ngăn Tà, giữ Thành, xa lìa Hư Vọng để phục hồi sự sáng” (nhàn tà, tồn thành, xa lìa hư vọng dĩ phục kỳ quang minh). Ngăn tà, giữ thành là giới, xa lìa hư vọng là định, và phục hồi sự sáng là tuệ.
c/ Nhận thức về thiền quán
Nhận thức chỉ được chân xác khi tư dục vắng mặt, Ngô Thì Nhậm nói: “Từ lúc tinh mơ, ngồi để đợi sáng, đó là lúc phát tưởng của vua Thành Thang. Ăn cơm rau, uống nước lã, khoanh tay mà gối, đó là lúc phát tưởng của đức Khổng Phu Tử. Trong tâm chỉ có một khối thiên lý, không có một tý nhân dục xen vào cho nên càng tưởng thì càng quang minh chính đại. Ðó gọi là cái tưởng của thánh hiền. Cái tưởng của phần lớn chúng sinh đều vọng tưởng, cho nên trong tâm nóng nực phiền não, càng tưởng thì càng bị lỗi”[21]. Ngô Thì Nhậm đi xa hơn thế. Ông nó đến thứ nhận hức mà trong đó đối tượng nhận htức và bản thể nhận thức không còn được phân biệt, tức là vô phân biệt trí trong đạo Phật.
Nhận thức Thiền quán “Ẩn Thanh”, tiếng của sự thịnh lớn, tức là “sự sinh khởi của vạn pháp từ bản thể chân như”, là “lưỡng nghi sinh tứ tượng”. Ðáp lại câu hỏi của một nho sĩ: “Phật nói là không sinh, tại sao lại có sinh? Phật nói không diệt tại sao lại có diệt?” Ngô Thì Nhậm trả lời: “Có sinh tức là không sinh, có diệt tức là không diệt”. Hải Âu nói: “Xuân đến hoa nở, thu đến hoa tàn, đó là sự sinh diệt của loài vật. Nếu tìm cho tận gốc thì tất cả đều trở về làng Hà Hữu. Khi ta mới sinh, ta là ai? Sau khi sinh, ta là ai? Cái sinh cái diệt của ta, nói cho cùng thì không thể biết chỗ tới và đi của nó. Thấy những cái có thể thấy mà không thấy cái không thể thấy, đó là cái ý chí bất sinh bất diệt vậy.”
Trong khi đó, Hải Hòa nói: “Phật nói bất sinh bất diệt trỏ vào đạo thể mà nói”[22].
Cả Ngô Thì Nhậm và Hải Âu đều lập luận rằng sự vật sở dĩ được gọi là bất sinh bất diệt, là tại vì ta đứng về phương diện bản thể hình nhi thượng của chúng. Sự đối lập bản thể và hiện tượng có vẻ rạch ròi quá. Ngày xưa Long Thọ không nói một tiếng về bản thể hình nhi thượng của sự vật mà vẫn chứng minh được tính cách bất sinh bất diệt của sự vật bằng cách nhìn ngay vào sự vật mà nói (Trung Quán Luận).
Nhận thức Thiền quán “Ngộ Thanh”, tiếng nói trong giấc ngủ, vấn đề bản chất sự vật lại được đưa ra. “Ðồ đệ hỏi: Nước nào không phải là nước? Ngô Thì Nhậm đáp: Thấy nước mà cho là nước, nước ấy không phải là nước thực. Hỏi: Lửa nào không phải là lửa? Ðáp: Trông thấy lửa mà cho là lửa, lửa ấy không phải là lửa thực. Nước thực thì thì có thể nóng. Lửa thực thì có thể lạnh”. “Lý không thể theo hết, nhưng dục có thể diệt hết không? Ðáp: Không diệt hết thì hết, diệt hết thì không hết”.
Ngôn ngữ ở đây có dáng dấp ngôn ngữ Bát Nhã trong kinh Kim Cương. Tiếc thay Hải Lượng đã không dùng biện chứng Trung Quán của Long Thọ để chứng minh cho điều minh nó. Câu nói: “Diệt hết thì không hết, không diệt hết thì hết” mang tính cách của quan niệm vô phân biệt và vô đắc quả là một lời nói có chất Thiền”.
Ngô Thì Nhậm cho rằng, nhận thức chỉ được chân xác khi dứt bỏ tư dục và ông đưa ra một số phương pháp nhận thức, như phát tưởng, hành tàng, thiền, tinh tiến, tinh nhất, khắc kỷ, sát hại, giáo dục, học hỏi,… Phát tưởng là phương pháp cần có trong quá trình nhận thức của con người. Ở đây, tưởng là nhận thấy đối tượng, gồm có tâm và đối tượng. Tu sĩ tu luyện đến mức độ nhất định có thể vượt khỏi tưởng, gọi là phi tưởng. Tu luyện đến mức độ cao hơn nữa, tinh tế đến mức không còn cái gọi là tưởng hay phi tưởng gọi là phi phi tưởng. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng phát tưởng, bởi trong con người thường có sự vọng tưởng, mà đã vọng tưởng, thì tâm động, không yên tĩnh, càng tưởng càng dẫn đến sự bế tắc trong tư tưởng, từ đó sẽ không vượt qua được tưởng để đến cái phi tưởng, phi phi tưởng. Duy chỉ có những bậc thánh hiền mới có khả năng phát tưởng, bởi tâm họ không chứa dục vọng, không động. Hành tàng cũng là một trong những phương pháp quan trọng, hành có nghĩa là hành đạo, tàng có nghĩa là cái đạo được giấu kín. Tàng là cái đạo đức chứa bên trong của người quân tử, còn hành là cái sự nghiệp được biểu lộ ra bên ngoài. Thiền là một phương pháp không thể thiếu nhất là đối với các bậc thánh nhân, thiền ở đây chính là sự “tĩnh tọa, tức tâm”. Tuy nhiên, trong cách nói của mình, Ngô Thì Nhậm lại nói thiền là thiện. Theo ông, chữ thiền khi đọc là thiện thì có nghĩa là trao truyền, nghĩa là trao truyền cho cái tâm thánh nhân, cái tâm giác ngộ. Con người muốn đạt tới sự tĩnh lặng, xóa bỏ được vô minh thì thiện là một phương pháp quan trọng và hữu hiệu. Chính quá trình thiện sẽ giúp người ta giác ngộ được cái tâm chung, là điều kiện giúp người trở thành thánh nhân, chúng sinh trở thành Phật.
Về con đường đi đến tịch diệt để nhận thức lý, ngoài những phương pháp đã trình bày, Ngô Thì Nhậm còn đưa ra phương pháp tinh tiến và phương pháp tinh nhất. Theo ông, con người luôn bị chìm đắm trong vô minh, có nghĩa là tâm người luôn bị trói chặt trong ngục tù của hỗn muội tối tăm, mà ngục tối vô minh rất khó phá bỏ, chứ không phải dễ phá như ngục tù của thế gian nên phải dùng phương pháp tinh nhất của Nho gia và phương pháp tinh tiến của Phật để phá ngục. Ở đây, tinh nhất được hiểu theo quan điểm của Nho gia là “duy tinh duy nhất doãn chấp quyết trung” (phải tinh tường chuyên nhất mới nắm được đạo trung). Còn tinh tiến, theo quan điểm Phật học, là “tinh thuần và gắng gỏi” (không tạp và không nhác). Bên cạnh phương pháp tinh nhất và tinh tiến, Ngô Thì Nhậm còn nhắc đến phương pháp khắc kỷ, tức là “giữ mình” và phương pháp sát hại, tức “phủ định dứt khoát với hiện tượng bên ngoài” để thực hiện nhận thức mọi việc.
d/ Quan niệm đạo đức vô hành
Ðạo đức vô hành là nền tẳng cho hành động. Thiếu cái vô hành thì cái hành có thể mất gốc. Vô hành là tàng, hành là ẩn. “Ðạo của trời đất được chứa nơi chỗ Hà Ngôn, đạo của thánh nhân được chứa nơi chỗ vô vi”. Hành là Dương, còn Tàng là Âm. Ngô Thì Nhậm nói: “Trời đất khéo dùng Âm, thần Phật thánh hiền khéo dùng âm. Dương là Tính mà Âm là Tình. Biết Tính mới thành được Tình. Trăm hoa nở bẹ vào lúc sớm mờ, muôn cây nứt màng vào khi chập tối, đó là Trời Phật khéo dùng Âm. Ngộ đạo thì truyền đăng, biết đạo thì hướng hối, đó là Thần Phật thánh hiền biết dùng Âm… Khéo dùng Âm thì Âm lại sinh Dương… người quân tử học đạo quý có âm đức, quý cho người ta được ngấm ngầm hưởng thụ điều mình ban bố”[23]
Âm sinh ra Dương, Tàng hiển lộ ra Hành như thế nào? Chương 15, “Hành Thanh”, tiếng động của Hành Ðộng, nêu rõ: “Ðạo của Thánh Nhân thu kín lại thì là đạo đức mà hành hóa ra thì là sự nghiệp. Sự ẩn tàng của nó như núi non trùng điệp, nhìn mà không trông thấy; sự hiển lộ của nó như một con đường lớn mà ai cũng có thể theo đó mà đi. Những kẻ tiểu trí huệ thấy được sự hiển lộ của nó mà vận hành theo để trị nước. Bậc đại lực lượng nhân sự ẩn tàng của nó mà chủ trương việc giữ nước: Ngô Thì Nhậm nói: “Phật nhấn mạnh ở chỗ giữ nước (trì quốc), không nhấn mạnh ở chỗ trị nước (trị quốc). Ðã giữ được nước thì không cần trị nước mà tự nhiên nước vẫn được trị. Nhưng nếu không phải là bậc đại hùng đại lượng như đức Thích Ca Mâu Ni thì không giữ nước được. Cho nên phải dùng đến việc trị nước. Vì thế đức Khổng Tử phải cho vua Nghiêu, vua Thuấn, Thang, Vũ, Văn đứng vào hàng có công đầu”.
Đạo đức vô hành không có hình dáng nhưng vẫn tác động tới vũ trụ nhân sinh, âm hưởng của nó gọi là kiến thanh, tức là âm thanh phát ra từ sự kiến tính ngộ đạo. Phật chủ trương “Minh tâm kiến tính”, Nho chủ trương “Chính tâm thành tính”, hai giáo tuy lối về khác mà cùng hướng về một chủ đích. Phật nói “Luân Hồi”, Nho nói “Tuần Hoàn”, tính cách vận hành lưu động của thời tiết và vạn vật không ai có thể chối cãi được. Phật và Nho đều có nói tới.
e/ Nhân quả báo ứng của Phật gia và quả nhiên tất nhiên của Nho gia
Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh còn nêu ra Nhân quả và báo ứng; chữ “Tất” của Nho tương đương với chữ “Nhân quả” của Phật, bởi vì “Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương”[24]. Ngô Thì Nhậm dùng sách Nho gia để giải thích thuyết nhân quả của nhà Phật một cách rõ ràng, dễ hiểu: “Đây là chữ Quả trong Quả nhiên, như chữ Tất của nhà Nho trong Tất nhiên. Nhà Nho nói: Nhà nào tích thiện, tất có thừa phúc; nhà nào tích bất thiện tất có thừa ương. Quả có cái ấy, thì được cái ấy, đó tức là quả. Thạc quả giống hệt với công quả, phúc quả. Vì vậy cho nên phúc không nên hưởng hết, công không nên kể hết, quả không nên ăn hết.
4/ Dung hòa quan niệm về nhân sinh quan và vũ trụ quan
a/ Quan niệm nhân sinh quan
Về triết lý nhân sinh trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, Ngô Thì Nhậm đã dành nhiều tâm huyết cho việc tìm kiếm con đường giải thoát con người ra khỏi “bể khổ” của cuộc đời, đồng thời hướng họ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn theo mong muốn của mình. Ông coi bản thân con người vốn không bao giờ được bình lặng và yên ổn do vô minh che lấp, họ luôn phải đối mặt với khó khăn và khổ ải trong cuộc sống của mình. Theo ông, bản chất con người khi sinh ra là mang tính thiện, nhưng do hoàn cảnh sống mà tâm tính con người bị thay đổi, họ trở nên bạc ác.
Ngô Thì Nhậm luôn nhấn mạnh vai trò của con người trong cách gìn giữ bản thân. Mọi nỗi khổ mà con người đang phải hứng chịu là do họ gây nên. Cho nên con người cần phải hiểu được đạo lý của trời mà vận dụng vào cuộc sống thường ngày mới mong không gặp phải tai họa.
Ngô Thì Nhậm còn cho rằng, khổ là do trong lòng con người luôn chứa đầy dục vọng. Ở con người, dục là tính (tự nhiên); nó ở trong nhật dụng thường hành, như khi đói thì muốn ăn, khát thì muốn uống, không có không được. Như vậy, ngay từ lúc sinh ra, con người cũng đã có dục trong lòng, mà dục lại là tính tự nhiên nên con người luôn phải đáp ứng những nhu cầu để thoả mãn chính bản thân. Nhân dục càng lớn thì con người càng bị nhấn chìm vào vô minh, làm cho họ không phân biệt được phải trái, đúng sai, đạo lý bị đảo lộn. Vì coi dục là tính tự nhiên, nên việc xoá bỏ dục không phải là một điều dễ dàng. Theo ông, con người muốn từ bỏ được dục thì trước hết, phải dứt bỏ được tham, sân, si để đi đến với đạo. Đến với đạo là một yêu cầu quan trọng trong cách giải thoát của con người. Người ngộ đạo bao giờ cũng sáng suốt, dứt bỏ được dục vọng, thoát khỏi đau khổ.
Danh lợi cũng là một dục vọng thường hành trong con người, chính sự quyến rũ của danh lợi làm cho con người không giữ được đúng đạo của mình, việc con người ham mê danh lợi là con đường gần nhất dẫn họ đến vô minh. Ngoài việc ham mê danh lợi, việc không biết phân biệt lợi, hại cũng dễ làm cho con người lầm đường, lạc lối trong hành động của mình. Vì vậy, không nên chỉ thấy cái lợi trước mắt mà quên mất rằng, cái lợi luôn đi đôi với cái hại, không nên lấy lợi làm lợi, mà phải lấy nghĩa làm lợi. Có như vậy mới giữ mình tránh khỏi tai họa.
Ngoài ra, con người thường đem họa đến cho mình cũng bởi không tuân theo đạo lý của trời đất. Theo Ngô Thì Nhậm, một người thông minh phải biết tuân theo đạo, biết giữ đúng đạo trời thì mới mong không vướng vào mê loạn. Do vậy, ông rất coi trọng việc con người biết tôn trọng và giữ đúng đạo, giữ đúng đạo, một mặt để làm tốt bản thân, xa lìa được danh lợi; mặt khác còn giúp ích cho kẻ khác. Xa lìa danh lợi là một trong những cách tốt nhất để con người trở về với cái tâm trong sáng của mình và học là một bước rất quan trọng để con người biết đạo, ngộ đạo.
Trong tư tưởng của mình, Ngô Thì Nhậm cũng coi liêm sỉ là một trong những đức tính không thể thiếu được ở con người; thiếu đi sự liêm sỉ, con người sẽ trở nên mù quáng trước những hành động của mình, từ đó mà dễ rơi vào vòng mê muội trong cách đánh giá sự việc. Ông khuyên con người luôn phải giữ được sự liêm sỉ để sáng suốt trong quá trình nhận thức, không làm trái quy luật khách quan.
Con người khổ không chỉ do họ đắm chìm vào danh lợi, mù quáng với cái lợi trước mắt, mà còn do họ luôn bị trói chặt trong cái vòng tròn sinh – lão – bệnh – tử. Sự sống chết luôn làm họ phân tâm, lo sợ và không giữ được mình. Ngô Thì Nhậm đã đem đến một cách nhìn mới trong vấn đề sinh tử. Với ông, sinh tử ở con người là điều tất yếu phải diễn ra trong vòng sống của một đời người, đã được sinh ra ở trên đời thì tất có lúc phải diệt. Con người không thể thoát khỏi cái vòng sinh tử luân hồi, nên tốt nhất là phải biết tu dưỡng bản thân để tránh gây ra tai vạ, còn bằng không thì sẽ tự đưa mình vào khổ ải. Việc con người sống hay chết đều phụ thuộc phần lớn vào cách sống của họ, sống chết sớm hay muộn là thuộc ở con người, biết tu dưỡng, chăm lo cho bản thân thì sống chết không là mối lo. Ông khuyên con người không nên vướng bận trước vấn đề sinh tử, mà quan trọng là phải biết giữ mình để tạo sự tin tưởng với mọi người.
Thái độ thờ ơ trước vấn đề sinh tử đã cho chúng ta thấy một Ngô Thì Nhậm điềm nhiên, tự tại, không vì danh lợi mà tham sống, sợ chết. Ông luôn trăn trở truớc thực tại và mong muốn tìm ra con đường giải thoát con người ra khỏi khổ ải. Kế thừa tư tưởng của Nho gia, ông coi trọng lễ trong cách giáo dục, giúp con người bỏ được danh lợi, xa lìa tham sân. Ông coi việc con người tuân theo lễ chính là con đường ngăn ngừa những thói hư, tật xấu, giữ được lẽ phải. Nhờ có lễ, con người kìm chế được dục vọng, không bất chấp quy tắc mà vượt đạo. Có lễ, con người sẽ giữ đúng đạo. Vì vậy mà lễ như là khuôn phép và cũng là phép tắc để con người nhìn vào đó mà không dám làm điều xằng bậy. Ông coi lễ là tiêu chuẩn cao nhất của đạo đức. Với ông, không có lễ thì nhân tâm, dù ở bất cứ dạng thức nào, cũng không phù hợp với tiêu cuẩn đạo đức. Không chỉ thế, ông còn đề cao cương thường lễ nghĩa trong việc giúp con người giữ mình.
Ngô Thì Nhậm cũng luôn tin vào sự chi phối của mệnh trời đối với con người và cuộc sống con người, kể cả sự hưng thịnh hay suy vong của một thời đại. Ông đã gắn kết mệnh trời với lòng người, đặt lòng người trước “ý trời” trong cách thuyết phục con người trước những chủ trương, quyết sách chính trị. Việc thuận theo ý trời sẽ đem lai lợi ích tốt lành cho muôn người, luôn thông cảm với nỗi khổ của con người, những gì con người phải nếm trải, một mặt, là do cách sống của họ, song mặt khác, là do trời định. Vì vậy, trong hành động của mình, Ngô Thì Nhậm khuyên con người cần phải khéo léo và tỉnh táo.
Những điều nói trên cho thấy, tư tưởng nhân sinh xã hội ở Ngô Thì Nhậm không xa rời lý tưởng nhân sinh của Phật giáo và Nho giáo. Con người khổ phần lớn và chủ yếu là do chính hoàn cảnh sống đã dẫn dắt họ vào con đường lợi dục. Với quan niệm này, ông luôn kêu gọi con người xa lìa danh lợi, hoặc đạo để sáng suốt trong từng hành động, suy nghĩ. Ông còn tin vào quan điểm của Nho gia, khi coi số phận con người là do mệnh trời quyết định, khuyên con người cần phải biết “đợi mệnh” và tuân theo mệnh. Tư tưởng nhân sinh xã hội của ông thắm đượm màu sắc của Phật giáo và Nho giáo. Đây chính là tư tưởng điển hình cho xu hướng dung hòa Nho – Phật của ông.
b/ Quan niệm về bản thể vạn vật của vũ trụ (vũ trụ quan)
Bản thể vũ trụ là hoá công, chính hoá công đã làm cho vũ trụ có một hình hài tương đối hoàn chỉnh và chất chứa những điều kỳ diệu. Ngoài tư tưởng bản thể là hoá công, ông còn coi bản thể là trời. Theo ông, nhờ có trời mà vạn vật được sinh sôi nảy nở, cũng nhờ có trời mà vạn vật có một trật tự ổn định. Tuy nhiên, đôi khi ông không đề cao vai trò của trời và hoá công mà cho rằng, việc vạn vật tồn tại trong thế giới này chỉ là sự tồn tại một cách tự nhiên, không do ai sắp đặt.
Bản thể vạn vật của vũ trụ, Ngô Thì Nhậm còn tiếp thu quan điểm Thiền tông. Ông coi bản thể là Phật tính (buddha – svabhava); Phật tính cũng được gọi là Chân như. Chân như theo Thiền tông là cái bất sinh, bất diệt, vô thỉ, vô chung, là chí nhất và chí đa, chí tĩnh và chí động, chí nhu và chí cương; Chân như này giống như phạm trù Đạo của Lão – Trang và phạm trù Thái cực “bất dịch mà biến dịch” của Chu dịch. Tinh thần Khu Thích Dĩ Nhập Nho, Cư Nho Mộ Phật trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh của Ngô Thì Nhậm, Chân như được tượng trưng bằng hình ảnh của mây và nước, vận động không ngừng và bao trùm cả vũ trụ. Theo ông, bình thường thì nước trông có vẻ nhu nhược, song chính nó lại là cái công phá được những vật cứng mạnh, vì nước còn có cái lực bên trong mà bằng mắt thường không thể thấy được, đó chính là chí nhu và chí cương của vật.
Bản thể vạn vật của vũ trụ ở Ngô Thì Nhậm là u huyền, lặng lẽ, nhưng cũng rất lưu động, biến thiên. Ngô Thì Nhậm đã nhận thấy thế giới này là một thể thống nhất hoàn chỉnh, tất cả đều bắt nguồn từ một mối nhất định. Theo ông, “số của trời bắt đầu từ một nguyên, lý của âm dương bắt đầu từ một khuyên. Số “một” là nơi hoá công chứa cái “vô tận” và thánh nhân chứa đựng những cái không bao giờ hết, chỉ có núi sông và trăng gió mới đương nổi mà thôi”. Thế giới này sinh ra từ sự hỗn độn, nhưng nó đều bắt nguồn từ một điểm duy nhất, nhìn vào đó có thể thấy một trật tự ổn định mà không cần phải suy xét. Không dừng lại ở đây, ông còn nhấn mạnh sự thống nhất của thế giới ở chỗ: ““vạn” quy vào “một”, hợp cái khác nhau vào chỗ “nhất quán”, vào cái “lý”, cái “số” cả trời đất, âm dương đều ở đó”. Như thế, ông đã thấy được sự thống nhất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, qua việc nhấn mạnh vai trò của số một. Nhờ có số một mà vạn vật mới hợp lại thành hình, nhờ số một mà hoá công mới có nơi cất giấu những điều bí ẩn của mình. Theo ông, “trời được một số mà trong, đất được một số mà yên, thánh nhân được một số mà thiên hạ đâu vào đấy” [25].
Ngô Thì Nhậm không chỉ dùng số “một” để diễn đạt tư tưởng của mình mà bên cạnh đó, ông còn dùng từ “đình” có nghĩa là “chứa đựng” để thể hiện tư tưởng của mình một cách rõ ràng và dứt khoát hơn. Ông đã cảm nhận được vạn vật trong vũ trụ này đều chứa đựng trong một vật dụng vô hình của trời đất, nhờ cái vật dụng vô hình đó mà muôn vật, muôn loài đều được che chở. Con người sở dĩ tập trung lại được với nhau là nhờ có “đình”. Ông viết: “Trời lấy “đình” (chứa đựng) để nuôi muôn vật; đất lấy “đình” để chứa muôn loài; người ta lấy “đình” để tụ họp với nhau mà muôn vật muôn loài đều là khách. Cho nên nơi người ta tụ họp lại với nhau thì có “đình” [26]
Tuy nhiên, theo Ngô Thì Nhậm, không phải nằm trong sự thống nhất mà vạn vật trở nên bất động. Chính trong sự thống nhất và mâu thuẫn giữa một và nhiều mà sự vật không ngừng biến đổi, phát triển. Ở ông, sự vận động, biến đổi của thế giới không phải do một cá nhân, một lực lượng nào sinh ra, mà nó diễn ra một cách hết sức tự nhiên.
Vẫn là sự tiếp thu tư tưởng Thiền tông, Ngô Thì Nhậm đã xuất phát từ âm thanh của cái không để làm rõ hơn tư tưởng, quan điểm của mình về Bản thể vạn vật của vũ trụ. Trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh: “Trong cái không mà có thanh thì thanh ấy không biết từ đâu đến, cũng không biết nó đi đâu, đón trước thì cũng không biết chỗ nó bắt đầu, theo sau nó thì không biết chỗ nó chung kết, sang sảng, oang oang không dừng lại một giây”. Như vậy, theo Ngô Thì Nhậm sự xuất hiện của tiếng không là điểm xuất phát của vạn vật trong vũ trụ và khi thời cơ chưa đến thì tiếng không còn ở trong sự hỗn độn, mịt mờ. Trong Ẩn thanh, ông viết: “Từ một luồng khí thông thoáng hỗn độn chưa chia, muôn vàn hiện tượng sinh ra từ cái không, cái không cũng chính là Thái cực” [27].
Ở đây, nếu đứng ở góc độ Phật học, chúng ta thấy không là thể tính của vạn hữu, bất sinh bất diệt, không từ đâu tới cũng không đi về đâu, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, khái niệm. Trong triết học Phật giáo thì không cũng là một khái niệm đa nghĩa, không có nghĩa là bản thể, khởi nguyên, cội nguồn của vũ trụ, vạn vật. Tuy nhiên, ở Ngô Thì Nhậm, chúng ta thấy có bước phát triển mới hơn. Ông không chỉ giải thích vấn đề ở một góc độ tản mạn, không chỉ dựa vào kiến thức Phật học, mà còn đứng trên cả lập trường của Nho giáo để phát triển tư tưởng của mình: không không chỉ là thể tính của vạn hữu, bất sinh, bất diệt mà đứng về phía Nho học thì không còn là thái cực, là khí hỗn nguyên. Ngô Thì Nhậm đã tán đồng với những quan điểm của các nhà Nho đời Tống, khi ông xác định vạn vật của vũ trụ này đều sinh ra từ Thái cực.
Ngô Thì Nhậm coi khí chính là cái gốc của vạn vật, nhờ có lý thì khí mới chuyển hoá thành sự vật phong phú, đa dạng khác nhau, trời đất đều có hình, có khí, vạn vật đều bẩm khí ở trời và thành hình ở đất. Theo ông, chính hai khí âm dương đọng lại thành vật tượng, cũng coi đạo là cái không do ai sinh ra và cũng không ai có thể làm nó tiêu tan mà bản thân đạo phát sinh từ tự nhiên, tự nhiên nó đến, không ai có thể thay đổi được đạo. Ông tin vào đạo, tin vào những gì đạo mang đến cho con người. Vạn vật trong vũ trụ này đều từ đạo phát ra, một gốc phân tán ra làm vạn vật, vạn vật khác nhau hợp lại làm một gốc. Bên cạnh đó, ông còn coi sự xuất hiện của con người là do khí trời sinh ra, thừa nhận hình thể con người là do hình và khí tạo nên. Theo ông, cái thân thể của con người là đồng chất với trời đất, chỉ khi nào có cái tinh thần rồi mới có cái thân thể.
Như vậy, có thể nói Bản thể vạn vật của vũ trụ trong Tinh thần Khu Thích Dĩ Nhập Nho, Cư Nho Mộ Phật của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, Ngô Thì Nhậm không chỉ mang sắc thái quan điểm Phật giáo mà còn cho thấy rõ mong muốn dung hòa tư tưởng triết học Phật gia vào Nho gia hay sống trong Nho nhưng có Phật. Nhìn chung, khuynh hướng chủ đạo bản thể vạn vật của vũ trụ trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh của Ngô Thì Nhậm là hướng đến sự dung hòa Nho – Phật. Ông không phải là người đầu tiên theo xu hướng này, nhưng sự hòa hợp của ông không giống như các nhà tư tưởng khác. Ông đã không bê y nguyên các phạm trù về bản thể luận của Phật, Nho dung hợp thành các phạm trù của mình như các học giả đời Tống, mà chỉ sử dụng các phạm trù Tống Nho đã tạo dựng, như tâm, tính, lý, dục để giải thích trở lại các quan điểm triết học của Phật giáo.
5/ Tinh thần yêu thương con người cùng vạn vật
Ngô Thì Nhậm nói rằng: Bậc Đại Bồ Tát vô lượng lực[28] thì không xuất gia … Thánh nhân “xem thiên hạ là một nhà”[29]. Còn chúng sinh vì nặng nghiệp, vì bất an bởi lòng tham và hận, nên xuất gia. Khổng Tử nói: “Chim muông ta không thể cùng bầy được, nếu không bạn bè với người thì ta còn bạn bè với ai?[30]. Kinh Liên Hoa nói rằng: “Ta xem hết thảy đều bình đẳng, không có lòng yêu ghét này nọ. Ta không tham cái gì, cũng không có cái gì hạn định và trở ngại cả”. Đó là cái nghĩa đại đồng của Nho gia.
Nhìn theo khía cạnh tâm lý thì khi con người vượt qua chướng ngại trong nội tâm, bắt đầu cảm thấy yên ổn, thì chính là lúc có nhu cầu kết nối với đồng loại, đóng góp cho đồng loại. Quy luật tự nhiên của tâm lý con người sau khi tu thân cũng như vậy. Cho nên là Bậc Đại Bồ Tát hay Thánh nhân thì lòng dạ càng rộng lớn, tâm muốn kết nối với muôn nhà.
Tinh thần yêu thương con người cùng vạn vật nói trên vốn khởi phát từ tính Không ở phần Không thanh (không còn nhận thức phân biệt giữa các sự vật), sâu sắc hơn qua việc nhìn thấy Phật tính trong mọi chúng sinh ở phần Kiến Thanh. Tới phần này, Ngô Thì Nhậm khẳng định rằng tinh thần Nho gia cũng có cái nghĩa đại đồng như vậy.
6/ Tinh thần nhập thế của Phật gia trong Nho gia
Chủ trương nhập thế của Nho, coi việc hòa nhập vào đời sống, tự rèn luyện mình giữa thế cuộc, là hoàn toàn phù hợp với tư tưởng Phật giáo.
Do khuynh hướng hỗn dung đa nguyên, nên trong những quan điểm triết học của mình, có chỗ, có lúc Ngô Thì Nhậm vẫn rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Cũng như một số nhà tư tưởng trước đó, ông chủ yếu hướng vào giải thoát con người về tâm linh, tinh thần, chứ chưa phải là sự giải phóng con người cả về tinh thần lẫn thể xác. Ông kêu gọi con người sống đúng đạo, đặc biệt là đạo trung hiếu, đạo cương thường, cần thiết thì nên tìm đến cuộc sống ẩn dật để giữ đúng đạo của mình. Ngoài ra, ông còn tin vào sự chi phối của mệnh trời đối với con người. Điều đó cho thấy Tinh thần Khu Thích Dĩ Nhập Nho, Cư Nho Mộ Phật trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh của Ngô Thì Nhậm đã thể hiện rõ sự linh hoạt và sáng tạo trong cách kế thừa, chọn lọc những tinh hoa của nhân loại để lại, đặc biệt là sự kế thừa tư tưởng của các bậc tiền bối.
Với triết lý tư tưởng nhập thế trong Tinh thần Khu Thích Dĩ Nhập Nho, Cư Nho Mộ Phật của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh này, ông đã có đóng góp lớn, tạo tiền đề lý luận mới cho việc khôi phục Thiền phái Trúc Lâm lúc bấy giờ. Là một người sống và tham gia vào chính sự, nên những tư tưởng của Ngô Thì Nhậm không nằm ngoài mục đích vì dân, vì nước. Tư tưởng của ông mang tinh thần hành động và nhập thế tích cực, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội đương thời.
7/ Giáo dục Nho gia theo tư tưởng Phật giáo
Giáo dục và học hỏi cũng là một trong những phương pháp quan trọng trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh. Ngô Thì Nhậm coi giáo dục là điều kiện cần thiết để con người lĩnh hội những giá trị đích thực của cuộc sống và sống xứng đáng hơn. Bằng cách giáo dục sẽ giúp con người không tham lam, xa lìa được hư vọng. Tuy nhiên, giáo dục không thì vẫn chưa ổn mà cần phải có sự tiếp thu, học hỏi sự giáo dục ấy để mài dũa chí hướng, giữ được tấm lòng trong sạch.
Là một người thấm nhuần triết lý Thiền tông, đồng thời luôn có khuynh hướng dung hoà Nho – Phật, nên các vấn đề trong nhận thức luận của Ngô Thì Nhậm luôn chứa đựng những yếu tố mới mẻ. Tư tưởng của ông thể hiện khá rõ nét về đối tượng nhận thức, mục đích nhận thức, đặc điểm và phương pháp nhận thức. Ông đã hướng con người vào nhận thức lý để có thể đi sâu, hiểu cả hình lẫn ý của sự vật, tức là không chỉ nhìn thấy cái mặt bên ngoài, mà còn phải thấu đáo cái bản chất ẩn giấu bên trong của sự vật. Chính việc nhận thức lý đã quy định nên mục đích nhận thức là tịch diệt và đặc điểm nhận thức là trực giác, nhận thức được lý chung quy là để con người hiểu được sự vật mà không sai lầm, đạt đến cái tâm tĩnh lặng, không chứa dục vọng, vô minh. Ngô Thì Nhậm cố gắng đưa con người đến tịch diệt bằng nhiều phương pháp khác nhau, từ chỗ mong muốn con người thực hiện được sự phát tưởng, ông hướng họ đến việc thực hiện hành tàng, thiện, tinh tiến, tinh nhất, khắc kỷ, sát hại,… đồng thời không bỏ qua phương pháp giáo dục và học hỏi. Ông đã kế thừa tư tưởng của cả Nho, Phật và Lão trong cách giải quyết vấn đề của mình. Do vậy, Tinh thần Khu Thích Dĩ Nhập Nho, Cư Nho Mộ Phật trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh của ông mang phong cách độc đáo riêng. Ông đã tiếp thu tư tưởng của các bậc thiền sư đời trước, nhưng không phải là sự sao chép, rập khuôn, mà trong đó có sự chọn lọc, phát huy theo một tinh thần mới, phù hợp với tư tưởng của thời đại lúc bấy giờ[31].
Nhìn chung, những phương pháp giáo dục trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, mà Ngô Thì Nhậm nêu ra đều có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thoát con người, hướng con người đến những cách nhận thức đúng đắn. Và, ở đây bí quyết của sự giải thoát là phải biết “ngăn tà khí, giữ lòng thành, xa rời cái gì hão huyền, để phục hồi cái tia sáng (trí tuệ), không đến nỗi chìm đắm trong bể khổ, mà được mọi điều giải thoát” (nhàn tà, tồn thành, xa lìa hư vọng dĩ phục kỳ quang minh). Ở đây, ngăn tà, giữ thành là giới, xa lìa hư vọng là định và phục hồi sự sáng là tuệ. Ngô Thì Nhậm đã theo quan điểm nhà Phật khi đưa ra phương pháp tam học để giúp con người tu tập, thực hiện sự giải thoát với chính bản thân mình. Giới – định – tuệ chính là con đường giải thoát, là phương tiện giải thoát tốt nhất để đưa con người tới sự giác ngộ.
Tinh thần Khu Thích Dĩ Nhập Nho, Cư Nho Mộ Phật trong tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh thể hiện rõ một số phạm trù cơ bản trong giáo lý Phật giáo thiền tông Trúc Lâm như: lý, dục, luân hồi, nhân quả, đạo đức, giáo dục, niết bàn tịch diệt, phá chấp, thiền quán, nhân sinh quan, vũ trụ qua, tinh thần nhập thế… đã được Ngô Thì Nhậm thực tiễn hoá, đơn giản hoá một cách rạch ròi, khúc chiết, làm cho người học dễ dàng nắm bắt được đường hướng và tông chỉ tu tập. Đây là nhận thức mới, lý giải mới của Ngô thì Nhậm về Phật, về Nho. Ông vận dụng một cách nhuần nhuyễn và khéo léo những tri thức Nho học vào việc giảng giải một cách dễ hiểu những phạm trù uyên áo của nhà Phật. Để ứng dụng tư tưởng nhà Phật vào trong đời sống, nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay một cách hữu hiệu thì bài học của Ngô Thì Nhậm là bài học mà những ai quan tâm đến tiền đồ của Phật giáo cũng phải suy nghĩ.
Có thể nói rằng, với tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử văn học Việt Nam, Ngô Thì Nhậm đã cố gắng lý giải quan niệm Tam giáo đồng nguyên nói chung, tinh thần “Khu Thích Dĩ Nhập Nho” “Cư Nho Mộ Phật” dung hòa hai hệ tư tưởng Phật gia và Nho gia (tức đưa tư tưởng triết học Phật gia vào Nho gia hay sống trong Nho nhưng có Phật) nói riêng, một cách có hệ thống, có lý luận. Nhưng do tư tưởng Nho gia đã thâm nhập vào trong máu huyết của ông ngay từ nhỏ, nên đôi khi ông đã kéo các phạm trù triết học sâu sắc, cao thâm và áo bí của nhà Phật về với các nguyên lý mang đậm chất thực tiễn nhằm tổ chức và cải tạo xã hội theo kiểu nhà Nho, cho nên không sao tránh khỏi sự khiên cưỡng, hình thức. Và thực tế, cho đến hôm nay Phật là Phật, Nho là Nho, không ai có thể đưa Nho vào Phật và ngược lại, cho dù người đó là danh nhân Ngô Thì Nhậm hay Hải Lượng thiền sư đi nữa.
Viên Hải Mặc Nhân
THƯ MỤC THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đăng Thục (1974), Phật giáo Việt Nam, tr.287
[2] Nguyễn Đăng Thục (dịch), Khóa hư lục ‘giới sát sinh văn’, tr.49
[3] Lê Quý Đôn toàn tập (1977), tập 2, Kiến văn tiểu lục NXB KH-XH, HN, tr.409 – 410
[4] Lê Mạnh Thát (1979), Toàn Nhật thiền sư toàn tập, tập 1, Viện Phật học Vạn Hạnh, tr.189-190,
[5] Thiền uyển tập anh, bản Vĩnh Thịnh, ký hiệu A.3144, tờ?
[6] Doãn Chính, PGS-TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, Tr. 125
[7] Lê Mạnh Thát (2006), Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb Tổng hợp TP HCM, tr. 291.
[8] Lâm Giang chủ biên (2006), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 5, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb KHXH, HN, tr. 125
[9] Hoà Thượng Tuyên Hoá (1999), Phật thuyết Tứ thập nhị chương kinh, Ban phiên dịch Việt ngữ, Tổng hội Phật giáo Pháp giới, CA xuất bản, tr. 77
[10] Thích Thiên Hoa (phiên dịch & lược giải) (1993), Kinh Viên Giác, Hội Phật giáo TP HCM ấn hành, tr.75
[11] Trần Tiến Khôi (2008), Luận ngữ với người quân tử thời hiện đại, Nxb Từ điển Bách khoa, tr. 320
[12] Thích Trí Quang (1993), Luật Sa di và Sa di ni (Qui Sơn cảnh sách), tập 3, tr. 1006
[13] Ngô Thì Nhậm – TP, tập 3, tr. 141
[14] Ngô Thì Nhậm – TP, tập 3, tr.149
[15] Ngô Thì Nhậm – TP, tập 3, tr.150
[16] Ngô Thì Nhậm – TP, tập 3, tr.174
[17] Thích Trí Tịnh (dịch), Kinh Phạm Võng, NXB TP.HCM, tr.13
[18] Ngô Thì Nhậm – TP, tập 3 tr.187-188
[19] Ngô Thì Nhậm – TP, tập 3, tr.217
[20] Chương 10: “Tịch Nhiên Vô Thanh”
[21] Chương 4: “Phát tưởng thanh”
[22] Chương 3: “Ẩn Thanh”
[23] Chương 21: “Tàng Thanh”
[24] Chương 24: “Dư Thanh”
[25] Cao Xuân Huy – Thạch Can (chủ biên) (1978), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.172
[26] Cao Xuân Huy – Thạch Can (chủ biên) (1978), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.175
[27] Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập3, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, tr.144.
[28] Bồ Tát là một cấp độ tu hành trong Phật giáo. Đại Bồ Tát vô lượng lực tạm hiểu là người tu hành tới cảnh giới rất cao.
[29] Luận Ngữ, thiên Vi Tử
[30] Luận Ngữ, thiên Nhan Uyên
[31] Cao Xuân Huy – Thạch Can (chủ biên) (1978), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.324.
QUAN TÂM VÀ HỖ TRỢ
Với sự hộ trì của chư tôn đức Tăng Ni, hàng cư sĩ Phật tử, trong suốt 10 năm qua, trang Thông tin Truyền thông Phật giáo Quảng Nam (Truyền hình Phật giáo QCB) do Ban Thông tin Truyền thông GHPGVN tỉnh Quảng Nam thành lập, vận hành và quản lý đã chuyển tải các hoạt động Phật sự của tỉnh nhà, những sản phẩm tin tức, chương trình tu học, chuyên đề Phật pháp mang thông điệp Từ bi - Trí tuệ và năng lượng tốt đẹp đến với cộng đồng những người yêu mến đạo Phật trong và ngoài tỉnh. Xây dựng hình ảnh Phật giáo Quảng Nam với phương châm tốt đời đẹp đạo!.
Hiện nay, Kênh truyền hình Phật giáo QCB (QCB) có trên 20 nhân sự là phóng viên, Ban biên tập và các bộ phận khác với kinh phí hoạt động hết sức hạn hẹp, vì vậy, để QCB tiếp tục duy trì hoạt động và mang lại nhiều thành quả trong công tác thông tin truyền thông Phật giáo, Ban Thông tin Truyền thông Phật giáo tỉnh Quảng Nam tha thiết mong mỏi quý chư tôn đức Tăng Ni, quý thiện nam, tín nữ gần xa phát tâm thiện lành trợ duyên cho hoạt động của Kênh.
Ban Thông tin Truyền thông Phật giáo tỉnh Quảng Nam xin trân trọng từng tấm lòng san sẻ, tiếp sức trong việc hoằng pháp lợi sanh của tất cả quý vị!.
Quý vị hỗ trợ qua số tài khoản:
Số tài khoản: 1036037035
Chủ tài khoản: Đoàn Công Tùng (Thích Thắng Thiện)
Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Bắc Đà Nẵng
Nội dung: Ủng hộ QCB