Tác phẩm dự thi lọt vào vòng chung khảo: VANG MÃI BÀI CA CỔ ĐỘNG

73

Cuộc thi: “Sáng tác Văn học, Nghệ thuật và Báo chí về Đạo hiếu” – năm 2020
Vòng chung khảo
———————
Tác phẩm dự thi: VANG MÃI BÀI CA CỔ ĐỘNG
MS 117 Báo viết

Đến vùng đất Tam Thăng không những khám phá địa đạo Kỳ Anh – địa đạo trong lòng cát trắng, địa đạo của lòng dân mà còn được gặp cụ bà Lê Thị Hiên – người đội viên tuyên truyền năm xưa và là người duy nhất của xã Tam Thăng hiện nay vẫn còn sáng tác và thuộc nhiều bài thơ cổ động.

Người đàn bà hát

Người ta gọi bà là “Người đàn bà hát”, quả không sai. Bà là một trong những đội viên tuyên truyền năm xưa đã đem lời ca tiếng hát cùng với các tầng lớp nhân dân tham gia chiến đấu, lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Và hôm nay “người nghệ sĩ già” đó vẫn say sưa sáng tác và truyền tụng những câu hò vè cổ động phong trào cách mạng, xây dựng quê hương cho lớp hậu thế.

Cô gái Lê Thị Hiên được trưởng thành trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, cha mẹ đều hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Nhà có 10 anh chị em thì đã có 9 người tham gia hoạt động cách mạng, có đến 5 người hy sinh vì tổ quốc, vì thế tình yêu nước, lòng căm thù giặc hằn sâu trong bà từ lúc còn nhỏ. 19 tuổi, được Đảng nhiệm vụ là giao liên, sau đó cảnh giới cho cán bộ hội họp và tham gia tuyên truyền tài liệu trong nhân dân. Để qua mắt địch, bà đã dùng lối tuyên truyền dùng lời thơ, tiếng hát để tiếp xúc, vận động bọn ngụy quân, ngụy quyền buông súng, trở về với quê hương, vận động nhân dân đi theo cách mạng.

Để hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao, bà đã kiên trì vận động nhân dân và xung phong đi đầu trong các cuộc đấu tranh trực diện với địch, khéo léo làm công tác binh, địch vận. Bằng sự mưu trí, dũng cảm, bà đã nhiều lần che mắt kẻ thù, bảo vệ an toàn thông tin và đường dây cách mạng. Và ngày 20.3.1967, bà Lê Thị Hiên thoát ly, tham gia thanh niên xung phong.

Đất nước hoàn toàn giải phóng, bà chuyển sang công tác ở Hội Phụ nữ xã Tam Thăng và nên duyên vợ chồng với ông Nguyễn Ngọc Anh. Ông cũng là dân Tam Thăng, tập kết ra Bắc, khi trở về quê nhà thì vợ và con đều đã hy sinh. Hai người nên nghĩa vợ chồng, nhưng cả hai vợ chồng đều bị nhiễm chất độc da cam, đứa con của họ cũng bỏ ông bà mà ra đi, từ khi còn nhỏ. Rồi ông cũng đã về với tổ tiên ông bà, bà ở lại một mình với làng Thạch Tân này, đem tiếng hát, lời thơ truyền lại cho đời và cũng là niềm vui để sống tuổi già.

Nhà thơ cổ động

Bà tự sáng tác và thuộc những bài dân ca cổ động thời kháng chiến như: Bài thơ Bác Hồ; Cái vè địa đạo; Giặc càn Tỉnh Thủy; Mười năm khói lửa điêu linh; Ấm tình quân nhân…; và những bài thơ do cán bộ, nhân dân sáng tác như: Gương anh cán bộ; Qua cầu danh dự…Và sau ngày giải phóng bà tiếp tục sáng tác những bài vè: Đất nước nở hoa; Giữ lấy biển đảo quê hương và Địa đạo Kỳ Anh…

Bà nhớ lại, ngày xưa có nhiều đêm bà biểu diễn, các anh bộ đội, thương bệnh binh và đông đảo bà con vỗ tay cổ vũ. Lúc ấy không bao giờ nghĩ đến cái chết, chỉ nghĩ duy nhất một điều, còn hơi thở thì còn sáng tác và cất cao tiếng hát của mình để tuyên truyền “ngọn lửa” cách mạng. Khi đó, “sân khấu” biểu diễn chỉ cần một khu đất nhỏ bằng phẳng là đã có thể múa hát, đóng kịch, hò, vè. Những cột mốc lịch sử của đất nước, của quê hương đều được bà ghi lại bằng thơ, bằng vè như trong bài “Thấm tình quân dân”: Bảy mươi cho đến bảy hai/ Bộ đội tỉnh huyện về nằm ở đây/ Đặc công bốn chín còn đây/ Đánh đồn Ngũ Lợi ghé về nghỉ chân/ Củ khoai củ sắn chén xôi/ Khoai bùi trăm dạ trăm tình quân dân. Hay “Chiếc cầu danh dự” được xây dựng tiễn thanh niên lên đường toàn quân giết giặc, đã hơn 45 năm bà thuộc làu làu bài thơ do thanh niên, bộ đội sáng tác: “Qua cầu dừng bước trên cầu/ Ký tên vào sổ thề câu trung thành/ Trai hùng trên đất Kỳ Anh/ Thề non hẹn biển quyết giành chiến công”

Khi truyền đạt, đường lối chủ trương của Đảng, của Bác Hồ về đánh giặc, giữ nước, bà sáng tác “Bài thơ về Bác Hồ”: Bác Hồ kêu gọi dặn dò/ Đồng bào ta phải nhớ cho rõ ràng/ Pháp và ta hai đường ký kết/ Hiệp định đình chiến ở Việt Nam/ Thừa nhận Pháp phải ghi rằng/Chủ quyền thống nhất hoàn toàn về ta/ Quân đội Pháp rút ra khỏi nước/Lãnh thổ ta sau trước vẹn toàn/Chín năm tranh đấu gian nan/Quang vinh giờ phút huy hoàng từ đây/ Tổng tuyển cử là ngày thống nhất/Vào mùa thu tháng Tám không xa/Làm cho Nam – Bắc một nhà/Con đường thắng lợi của ta rõ ràng/Ta thắng lợi vì đâu thắng lợi/Vì nhân dân cương quyết hy sinh/Nêu cao ý chí hòa bình”.

Bà viết về địa đạo Kỳ Anh, để ghi nhớ chiến tích của lòng dân Kỳ Anh:“Địa đạo Kỳ Anh vang lừng một thuở/ Dấu ấn năm xưa lịch sử còn ghi/ Chiến lũy ngầm cùng Vịnh Mốc, Củ Chi/ Vang dội chiến công thời kỳ chống Mỹ/diệt ác phá kèm đứng lên làm chủ/ Sáng bừng lên ngọn lửa quê ta/ Hệ thống đường ngầm trận địa bao la/ Lăn lộn từ góc nhà bờ tre dưới làng đất sỏi/ Căn cứ địa lòng dân hóa thành bất tử/ Bám đất giữ làng một dạ kiên trung/ Ta vẫn biết mỗi tấc đất, bụi cây cũng đầy máu lửa/ Cái giá hy sinh đâu kể được bằng lời/Bản anh hùng ca để lại cho đời/ Một trang sử ghi vào huyền thoại.

Hay cảnh khí thế, quân dân một lòng xây dựng địa đạo, sự sáng tạo, dũng cảm và gan dạ của các thế hệ đi trước, được thể hiện qua bài vè “Cái vè địa đạo”: Lẳng lặng mà nghe/ Cái vè địa đạo/ Quân dân họp báo/ Phát động phong trào/ Xây dựng chiến hào/ Đánh quân cướp nước/ Kẻ cuốc người khiêng/ Kẻ đào người xúc/ Phụ nữ lập tức/Gánh đất góp công/ Các bác các ông/ Đan phên dốt cọc/ Tiếng đào lối cát/ Vang vọng xóm làng/ Thiếu nhi sẵn sàng/ Đào nhanh như chớp/ Kẻ thù lớp tớp/ Bay muốn vào đây/ Có chiến hào này/ Quyết tâm đánh thắng/ Kỳ Anh cát trắng/ Sóng biển rì rào/ Gan dạ càng cao/ Vùng lên đồng khởi/ Bom thù càng xới/ Sức mạnh càng tăng/ Dân ta thật hăng/ Đào nhanh hơn nữa/ Trong vòng mấy bữa/ Thung lũng địa cầu/ Hầm nọ gối đầu/Hầm kia liên tiếp/ Nghĩ sao cho xiết/ Địa đạo Kỳ Anh…Dẫu cho bom đạn/Địch đánh địch càn/ Địa đạo quanh làng/ Đố bay kiếm được/ Dân ta yêu nước /Đoàn kết đồng tình/ Quyết chí hy sinh/ Để giành chiến thắng/ Cất cao tiếng hát/ Hố hụi hò khoan/ Cuốc xẻng xà beng/ Leng keng lốt cốt/Quyết đào cho tốt/ Quyết đánh đến cùng/ Kỳ Anh anh hùng/ Lập công chiến thắng.

Còn trong bài thơ “Ấm tình quân dân”, được ra đời trong hoàn cảnh ngôi đình làng Thạch Tân, trải qua hàng chục năm bom đạn, đặc biệt là 4 xe bọc thép của địch kéo không sập là một điều kỳ bí mà không ngôi đình nào có được: “Dẫu cho bom đạn trên đầu/ Vẫn đào địa đạo vẫn đào hầm chông/ Bay đừng nghĩ mạnh sức đông/ Không làm lay được người dân người dân xứ này/ Bay đem xe ủi máy cày/ Làm sao phá được đình này thành tro/ Đình này vẫn đứng thẳng ro/ Có thần che chở giúp cho giúp cho quê nghèo”.

Tuổi cao, sức yếu nhưng hằng ngày bà tiếp tục sáng tác thơ, ca, hò, vè tuyên truyền về an toàn giao thông, bài trừ ma túy, ủng hộ người nghèo, thiên tai lũ lụt, kế hoạch hóa gia đình, giữ gìn môi trường xanh sạch đẹp, hiến máu nhân đạo…Những bài “cổ động” của bà, lối viết gần gũi, cô đọng, làm cho nhân dân dễ thuộc, đi vào lòng người. Những bài ca cổ động, nhân chứng sống của cụ bà Lê Thị Hiên là những câu chuyện lịch sử, là giá trị văn hóa phi vật thể tại khu di tích lịch sử Địa đạo Kỳ Anh, nên cần giữ gìn và lưu truyền rộng rãi trong công chúng.

————————————

Tác giả dự thi: Phan Thị Quế Hà
Địa chỉ: Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam (Số 5, Nguyễn Chí Thanh, TP. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam)

QUAN TÂM VÀ HỖ TRỢ

Với sự hộ trì của chư tôn đức Tăng Ni, hàng cư sĩ Phật tử, trong suốt 10 năm qua, trang Thông tin Truyền thông Phật giáo Quảng Nam (Truyền hình Phật giáo QCB) do Ban Thông tin Truyền thông GHPGVN tỉnh Quảng Nam thành lập, vận hành và quản lý đã chuyển tải các hoạt động Phật sự của tỉnh nhà, những sản phẩm tin tức, chương trình tu học, chuyên đề Phật pháp mang thông điệp Từ bi - Trí tuệ và năng lượng tốt đẹp đến với cộng đồng những người yêu mến đạo Phật trong và ngoài tỉnh. Xây dựng hình ảnh Phật giáo Quảng Nam với phương châm tốt đời đẹp đạo!.

Hiện nay, Kênh truyền hình Phật giáo QCB (QCB) có trên 20 nhân sự là phóng viên, Ban biên tập và các bộ phận khác với kinh phí hoạt động hết sức hạn hẹp, vì vậy, để QCB tiếp tục duy trì hoạt động và mang lại nhiều thành quả trong công tác thông tin truyền thông Phật giáo, Ban Thông tin Truyền thông Phật giáo tỉnh Quảng Nam tha thiết mong mỏi quý chư tôn đức Tăng Ni, quý thiện nam, tín nữ gần xa phát tâm thiện lành trợ duyên cho hoạt động của Kênh.

Ban Thông tin Truyền thông Phật giáo tỉnh Quảng Nam xin trân trọng từng tấm lòng san sẻ, tiếp sức trong việc hoằng pháp lợi sanh của tất cả quý vị!.

Quý vị hỗ trợ qua số tài khoản:

Số tài khoản: 1036037035
Chủ tài khoản: Đoàn Công Tùng (Thích Thắng Thiện)
Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Bắc Đà Nẵng
Nội dung: Ủng hộ QCB