TIỂU SỬ
HÒA THƯỢNG ĐẠO HIỆU THÍCH THIỆN DUYÊN (1928 – 2021)

Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thành viên Hội đồng Giám luật thuộc Hội đồng Chứng minh GHPGVN
Chứng minh Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương GHPGVN
Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị sự GHPGVN
Nguyên Trưởng Ban Hướng Dẫn Phật tử Trung ương GHPGVN
Nguyên Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam
Nguyên Phó ban thường trực Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng
Nguyên Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Tín
Nguyên Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQVN
Nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Nam
Viện chủ chùa Đạo Nguyên, Tp.Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

1THÂN THẾ

Hòa thượng đạo hiệu Thích Thiện Duyên, thế danh Võ Đình Như, sinh năm Mậu Thìn (1928), tại thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngài là con thứ 3 trong gia đình. Thân phụ và thân mẫu của Hòa thượng là cụ ông Võ Toản, pháp danh Nhựt Hoàn và cụ bà Đặng Thị Chức, pháp danh Diệu Phát. Gia đình Ngài có truyền thống Phật giáo thuần thành.

Với túc duyên nhiều đời, từ nhỏ Ngài thường được bà nội dẫn đến chùa làng tụng kinh niệm Phật. Gặp lúc Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Hòa từ chùa Trà Can, Tháp Chàm – Phan Rang về tổ chức lễ truyền tam quy ngũ giới tại chùa Tịnh An, Phù Cát, Bình Định, Ngài sớm quy y trong dịp này.

2XUẤT GIA TU HỌC

Năm 1941, cơ duyên thuần thục, lòng cảm mến Phật Pháp dâng cao, được sự chấp thuận của song thân, Ngài dõng mãnh phát tâm xuất gia khi vừa 13 tuổi. Ngài rời gia đình đến đầu sư nơi Hòa thượng Giáo thọ Thích Quảng Đức chùa Tịnh An (xã Cát Tân, huyện Phù Cát) mong được nương bậc minh Sư suốt đời tu học. Nào ngờ, chỉ mới 5 năm, Hòa thượng giáo thọ đã chích lý Tây quy, cao đăng thượng phẩm. Trước sự mất mác to lớn trong buổi đầu hành điệu, Ngài ở lại Tịnh An một thời gian để thù ân báo đáp công ơn khai thị.

Thời gian luống qua, lúc 18 tuổi, xót mình giáo pháp chưa thấm, thầy hướng dẫn lại không, Ngài quyết định lên đường cầu thầy học đạo để được chỉ dạy chỗ đến đi. Được biết, Đại lão Hòa thượng thượng Giác hạ Tánh, viện chủ Tổ đình Hưng Long, xã An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, là một trong những ngọn Hải đăng của tỉnh thời bấy giờ, Ngài tìm đến đảnh lễ cầu thọ Pháp. Tại đây, Ngài được Đại lão Hòa thượng Hưng Long nhận làm đệ tử và ban cho pháp danh là Quảng Thành. Sau một năm hầu thầy học đạo, Ngài được bổn sư cho thọ giới Sa di với pháp tự là Thiện Duyên.

Ngoài thời khóa tu học tại Phật học đường Hưng Long, Ngài cùng chúng Tăng thường xuyên cày ruộng, cuốc đất, trồng rau… nhằm tự túc lương thực, rèn luyện thân thể theo tinh thần “lấy thiền làm nông, lấy nông làm thiền”. Đặc biệt, Ngài là dân công tiếp vận, gánh gạo, gánh muối đi bộ từ Tổ đình Hưng Long (tỉnh Bình Định) lên tận các tỉnh Tây Nguyên để tiếp tế bộ đội cụ Hồ đánh giặc Pháp giải phóng đất nước.

Phong trào chấn hưng Phật giáo lúc này đã lan rộng, khí thế học Phật bừng dậy từ Bắc chí Nam, các Phật học viện mở ra cùng khắp. Năm 1953, Phật học đường Nha Trang thành lập, Ngài được Hòa thượng bổn sư cho vào theo học tại đây. Năm 1956, Phật học đường Báo Quốc – Huế chuyển vào Nha Trang và nhập cùng với Phật học đường Nha Trang thành Phật học viện Trung Phần đặt tại chùa Hải Đức, do cố Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám viện. Trong thời gian theo học tại đây, Ngài là một trong những học Tăng sáng giá của khóa học đầu tiên này.

Năm 1957, Ngài được Hòa thượng bổn sư cho thọ đại giới và ban cho Pháp hiệu là Quán Ngôn. Đại giới đàn Hộ Quốc này do Hòa thượng Giám viện tổ chức và Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên (suy tôn đệ nhị Tăng thống GHPGVN Thống Nhất vào năm 1973) làm Đường đầu Hòa thượng. Giới thể châu viên, Ngài gia tâm nhiều vào hành trì giới luật và bắt đầu cho sự nghiệp hoằng hóa sau này.

3HOẰNG PHÁP LỢI SANH

Sau khi tốt nghiệp khóa học tại Phật học viện Hải Đức, Ngài được Tổng hội Phật giáo Việt Nam bổ nhiệm làm giảng sư trong giảng sư đoàn Trung phần. Trong thời gian này, Ngài đã đi giảng thuyết giáo lý khắp các tỉnh thuộc Trung phần như Nha Trang, Bảo Lộc (Lâm Đồng), Phú Yên, Quảng Ngãi và nhất là Quảng Nam Đà Nẵng.

Tại Quảng Nam, Ngài đã không quản gian lao, vượt thác trèo đèo, đến tận các vùng trung du hẻo lánh như Hiệp Đức, Hậu Đức, Trà My, Tiên Phước, Nông Sơn, Quế Sơn, Đại Lộc… cho đến các vùng đồng bằng ven biển như Tam Hải (Núi Thành), Duy Hải (Duy Xuyên), Bình Minh (Thăng Bình)… Trong thời gian hoằng pháp tại Quảng Nam, Ngài thường dừng chân ở lại tại các trú xứ Pháp Bảo (Hội An), Hòa An (Tam Kỳ) là những Hội quán cơ sở Tổng hội Phật giáo thời bấy giờ.

Với lý tưởng dấn thân, hoằng pháp vi gia vụ, bằng tất cả nhiệt huyết đem giáo pháp vào đời, Ngài luôn tận tụy với sứ mệnh tại đất Quảng như một nhân duyên bổ xứ trong giai đoạn lịch sử xã hội biến động đầy khó khăn này.

4PHỤNG SỰ GIÁO HỘI

Năm 1962, tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 đơn vị là tỉnh Quảng Tín và Quảng Nam. Cuối năm 1962, Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Tín được thành lập. Tổng hội Phật giáo Việt Nam bổ nhiệm Ngài làm Hội trưởng, trụ sở tạm thời đặt tại Hội quán chùa Hòa An.

Năm 1963, khi pháp nạn bùng nổ, Ngài đã lãnh đạo, kêu gọi và cùng chư Tăng Ni trong tỉnh chung lưng đấu cật bảo vệ Đạo Pháp, đem lại an bình cho Phật giáo địa phương. Ngày 01-11-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, Pháp nạn tạm qua, sự sinh hoạt tu học của Tăng Ni trong tỉnh dần dần đi vào ổn định.

Xét thấy Giáo hội tỉnh nhà chưa có một cơ sở xứng tầm để làm việc, Ngài thương thuyết với chính quyền thời bấy giờ xin khu đất tại thôn Mỹ Thạch, xã Kỳ Hương (nay là phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ) để làm chùa Đạo Nguyên – Tỉnh hội Phật giáo Quảng Tín. Ngài chủ trì và vận động khởi công xây dựng ngôi chùa vào ngày 17-11-1963, dưới sự chứng minh của Đức Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Sau 2 năm xây dựng, chùa Đạo Nguyên được hoàn thành.

Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài được Viện Hóa Đạo cử làm Chánh Đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Tín cho đến ngày thống nhất đất nước (tháng 4/1975). Trong thời gian này, ngoài việc chăm lo công tác hành chánh của Giáo hội, Ngài còn chú trọng đến việc thiết lập hoằng pháp cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho tín đồ tu học, hình thành nên hệ thống niệm Phật đường tự viện tại các vùng nông thôn trong tỉnh. Bên cạnh đó, Ngài luôn chú tâm đến việc đào tạo Tăng tài nhân sự, nên thường xuyên mở khóa giảng dạy kinh – luật – luận cho Tăng Ni trong các khóa an cư kiết hạ.

Năm 1977, tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và Đà Nẵng sát nhập làm một, Chư Tăng Ni 3 tỉnh họp lại, thành lập Ban Đại diện Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng, Ngài giữ chức vụ Phó Đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Tháng 5 năm 1982, Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được tổ chức và Ngài được Đại hội cử làm Phó Thường trực Ban Trị sự mãi cho đến ngày chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

Cùng lúc đơn vị hành chánh tỉnh Quảng Nam được thiết lập năm 1997, Trung ương Giáo hội đã giao nhiệm vụ cho Ngài làm Trưởng ban Vận động thành lập Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam. Nhờ nhiệt tâm vì đạo Pháp và đức tính khiêm hạ của mình, Ngài đã tổ chức Đại hội Đại biểu Phật giáo tỉnh Quảng Nam lần thứ nhất thành tựu tốt đẹp. Tại Đại hội này, Ngài được suy cử làm Trưởng Ban Trị sự. Sau khi thành lập Tỉnh hội, Ngài liền thúc đẩy thành lập Trường cơ bản Phật học Quảng Nam và đảm trách Giáo thọ các môn Luật học. Bên cạnh đó, Ngài tiến hành tổ chức các kỳ Đại giới đàn vào những năm 2000, 2004, 2015 để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni sinh đang theo học, ngõ hầu tạo tiền đề phát triển nhân lực cho Giáo hội tỉnh nhà.

Là một trong những “thạch trụ” của Phật giáo miền Trung và cũng là Chánh Đại diện Tỉnh hội Phật giáo Quảng Tín, Hòa thượng Thích Thiện Duyên đã nhận lời mời của Hòa thượng Thích Trí Thủ tham gia làm thành viên Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam. Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập vào ngày 02/02/1980 do Hòa thượng Thích Trí Thủ – Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVN Thống nhất làm Trưởng ban. Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, Ngài được Giáo hội tín nhiệm cử vào chức vụ Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Ở tuổi ngoài 80 nhưng Hòa thượng vẫn thường xuyên tham dự tất cả các hội nghị Ban Thường trực HĐTS, hội nghị Thường niên HĐTS GHPGVN… để kịp thời giải quyết các vấn đề quan trọng của Giáo hội.

Năm 1996, Ngài được thỉnh cử làm Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử T.Ư GHPGVN và phụ trách liên tiếp cho đến hết nhiệm kỳ VII (2017). Với Ngài, Ban Hướng dẫn Phật tử T.Ư GHPGVN là nơi gắn bó sâu sắc trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp. Từng Phân ban Cư sĩ, Gia đình Phật tử, Thanh thiếu nhi Phật tử… lần lượt ra đời trong ý hướng phát triển hội nhập thời đại. 90 tuổi, Hòa thượng không nề hà niên cao lạp trưởng, vẫn thân hành đến thăm, sách tấn Ban Trị sự và Ban Hướng dẫn Phật tử các tỉnh, thành suốt từ Bắc vào Nam. Tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII, Ngài được suy cử đảm trách chức vị Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Năm 2008 và 2014, Ngài cùng với chư tôn đức lãnh đạo T.Ư GHPGVN đăng cai tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak tại Mỹ Đình, Hà Nội và tại chùa Bái Đính, tỉnh Ninh Bình. Năm 2019, Hòa thượng được cung thỉnh vào Thành viên Ban Chứng minh Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak được tổ chức tại chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam. Đây là sự kiện Quốc tế quan trọng góp phần nâng cao vai trò của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, đồng thời khẳng định vị thế, trách nhiệm của Việt Nam đối với Liên hợp quốc.

Năm 2003, Hòa thượng cùng với chư tôn đức thăm và thuyết giảng cho các đạo tràng Phật tử tại hải ngoại như: Úc, Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Đài Loan. Trong thời gian này, Hòa thượng hành hương về đất Phật – Ấn Độ, Tích Lan.

Năm 2010, Ngài cùng với chư giáo phẩm đại diện cho phái đoàn T.Ư GHPGVN tham dự Đại lễ Vesak và hội thảo quốc tế tại Bangkok – Thái Lan.

Năm 2012, Ngài được thỉnh mời thuyết giảng các đạo tràng tu học ở các cơ sở Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Với cương vị Thành viên Trưởng lão trong Hội đồng Chứng minh từ Đại hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VI, đến nhiệm kỳ VIII, năm 2017, Ngài được suy tôn, bảo vị Phó Pháp chủ và là thành viên Hội đồng Giám luật thuộc Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

5ĐÓNG GÓP ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Đạo pháp và dân tộc đồng hành phát triển dường như là tiêu chí gắn liền với cuộc đời hành đạo của Hòa thượng. Tinh thần trọng thị, liên kết hòa hợp “tuỳ duyên bất biến” đã tạo nên sự lắng nghe dung nhiếp cùng tiếng nói đoàn kết giữa Giáo hội và cộng đồng xã hội cũng như các cấp chính quyền. Vì vậy, Hòa thượng được Nhà nước, Chính phủ khen tặng: Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân tộc, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, bằng khen của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ niệm chương vì Sự nghiệp Dân vận và nhiều bằng khen của Ủy ban Nhân dân, Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, bằng Tuyên dương công đức của Giáo hội Phật giáo Việt nam và nhiều phần thưởng cao quý khác.

6HOẰNG TRUYỀN GIỚI LUẬT

Về phương diện giới luật, là một Tăng sĩ tinh thông học giới, Ngài luôn lấy giới làm trọng, tích cực phát huy vai trò hàng đầu của giới luật. Vì thế, Ngài thường được các nơi cung thỉnh tham gia tác pháp hoằng truyền giới luật như: làm Giáo thọ trong các trú xứ an cư kiết hạ của chư Tăng địa phương; dẫn thỉnh sư Đại giới đàn Vĩnh Gia (Đà Nẵng, 1970); Ban khảo hoạch Đại giới đàn Thiện Hòa (Sài Gòn, 1980); Giáo thọ A-xà-lê Đại giới đàn Phước Huệ (Đà Nẵng, 1996); Giáo thọ A-xà-lê Đại giới Đàn Tịnh Khiết (Huế – 2000); Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Minh Giác (Quảng Nam, 2000); Giáo thọ A-xà-lê Đại giới đàn Chánh Nhơn (Bình Định, 2000); Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Ân Triêm (Quảng Nam, 2004); Chứng minh Đại giới đàn Trí Thủ (Đà Nẵng, 2008); Chứng minh và Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Phước Trí (Đà Nẵng, 2013); Chứng minh và Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Kế Châu (Bình Định, 2013); Chứng minh và Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Vĩnh Gia (Quảng Nam, 2015); Chứng minh và Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Tâm Hoàn (Bình Định, 2017); Chứng minh và Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Tôn Thắng (Đà Nẵng, 2018); Chứng minh và Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Bồ tát Thích Quảng Đức (Nha Trang – Khánh Hòa, 2019); và sau cùng mùa hạ năm 2020, khi đã 93 tuổi, Ngài được cung thỉnh Chứng minh và Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Trí Hải – Bích Liên (Quy Nhơn – Bình Định). Số lượng Giới đàn cung thỉnh Hòa thượng kể trên thật khế hợp với câu: “Giới luật là mạng mạch Phật pháp”.

7HÓA DUYÊN ĐỘ CHÚNG

Là bậc hành trì giới luật mô phạm, nên đối với hàng môn đồ đệ tử, Hòa thượng vừa nghiêm khắc trong giáo dưỡng, vừa chăm lo dõi theo từng bước tu học của từng người. Đệ tử xuất gia của Ngài có 16 vị Tỳ kheo và nhiều vị Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni nương cầu giáo giới tu học, trong đó có những vị đã thành tựu học vị tiến sĩ quay về phụng sự gánh vác công việc Giáo hội, tiếp nối công hạnh Thầy. Đệ tử tại gia quy y với Hòa thượng lên đến số vạn, đặc biệt trong đó là những đoàn sinh niên thiếu qua nhiều thế hệ trong các GĐPT, TTNPT.

8MÃN PHẦN VIÊN TỊCH

Với bản thân, dù nhiều năm tháng Phật sự Giáo hội đa đoan nhưng Hòa thượng luôn dành riêng thời khóa thích hợp cho pháp tu Tịnh độ. Ở tuổi cửu thập dư niên, nhưng Hòa thượng vẫn phát nguyện đại trùng tu chùa Đạo Nguyên lần thứ hai, xây dựng ngôi chánh điện mới trang nghiêm và tiếp tục kiến thiết đạt được tổng thể chùa với tầm vóc nguy nga hiện tại, xứng tầm là nơi đặt trụ sở của Giáo hội tỉnh nhà, làm nơi quy ngưỡng cho chư Tăng Ni, tín đồ gần xa về tu học lâu dài. Sau khi hoàn thành ngôi Chánh điện mới chùa Đạo Nguyên, Ngài phú chúc ngôi vị Trụ trì cho Pháp tử Tỳ kheo Thích Viên Tánh, di ngôn lập học bổng đào tạo Tăng tài tại Quảng Nam, những việc ấy như bài pháp xả ly cao tột của người xuất gia thừa tự Chánh pháp sau cùng của Đức Trưởng lão Hòa thượng.

Do niên cao lạp trưởng, thân thị bịnh duyên, Hòa thượng mãn phần công đức, xả báo an nhiên, thâu thần thị tịch vào lúc: 06 giờ 15 phút ngày 7 tháng 3 năm Tân Sửu (nhằm ngày 18-4-2021), tại chùa Đạo Nguyên, phường Tân Thạnh, Tp. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Trụ thế 94 năm, 65 hạ lạp. Bảo tháp Ngài được tôn trí trang nghiêm trong khuôn viên chùa Đạo Nguyên nơi mà Ngài đã dày công kiến tạo.

Dù bất cứ lĩnh vực nào, thời kỳ nào, Hòa thượng luôn là người hết mình cho Phật sự. Ngài luôn đặt sự tồn vong của Đạo Pháp lên hàng đầu, lấy hoằng pháp làm sự nghiệp, xem giáo dục Tăng Ni là nền tảng của sự phát triển đạo Pháp, lấy giới luật làm giềng mối của sự lớn mạnh Tăng già. Ngài là tấm gương lớn về sự tận tuỵ, khiêm cung, đạm bạc xứng đáng là bậc mô phạm cho hàng hậu học noi theo.

NAM MÔ VIỆT NAM PHẬT GIÁO GIÁO HỘI CHỨNG MINH HỘI ĐỒNG PHÓ PHÁP CHỦ BẢO VỊ, TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ, ĐẠO NGUYÊN TỰ ĐƯỜNG THƯỢNG HÚY THƯỢNG QUẢNG HẠ THÀNH TỰ THIỆN DUYÊN HIỆU QUÁN NGÔN VÕ CÔNG ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG GIÁC LINH THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.