Anh MT nghiên cứu không đến nơi đến chốn, lại thích “múa rìu qua mắt thợ”, khi phê phán Thầy Thích Nhật Từ (TNT) một cách nặng lời như “tự ý đổi tên nhân vật trong kinh Phật”, “việc làm ngẫu hứng, tự phát, tùy tiện, tùy hứng”.
Đọc bài “Chất vấn TT. Nhật Từ về tự ý đổi tên nhân vật trong kinh Phật” của anh Minh Thạnh (MT) đăng trên Phật tử Việt Nam, [1] tôi lấy làm tiếc khi anh MT nghiên cứu không đến nơi đến chốn, lại thích “múa rìu qua mắt thợ”, khi phê phán Thầy Thích Nhật Từ (TNT) một cách nặng lời như “tự ý đổi tên nhân vật trong kinh Phật”, “việc làm ngẫu hứng, tự phát, tùy tiện, tùy hứng”. Trong tâm trạng đắc thắng, MT chất vấn thầy TNT: “Rồi tại sao là vứt đi danh từ riêng Angulimala ghi rõ trong kinh Phật? Lý do để loại bỏ từ này và thay bằng một cụm từ hình tượng nhưng tùy tiện, ngẫu hứng, tự tạo, tự chế.” Hay gay gắt hơn, cho rằng việc làm đó là làm “biến dạng” Kinh Phật: “người soạn dịch [thầy TNT] có phải không chỉ đổi tên nhân vật, mà muốn đưa ra một phương pháp, một cách thức tạo hình tên mới: Nếu như vậy thì kinh Phật sẽ rơi vào tình trạng biến dạng vô cùng vô tận, không còn sự chính xác.” Mấu chốt của bài viết của anh MT là do anh MT ngộ nhận rằng “tên nhân vật Angulimala được [thầy TNT] tự ý thay đổi thành “tên khủng bố Vòng Hoa Tay Người”.
Sau khi đọc kỹ bài viết nêu trên của anh MT, tôi thấy anh MT đang rơi vào tâm trạng, dựa vào một số điểm tác giả Nguyên Giác khen tặng quyển “Kinh Phật cho người tại gia” do thầy TNT soạn dịch, MT tiến hành phê phán ngược lại. Không biết tác giả MT có tư thù gì với thầy TNT hay không, qua cách viết với lời lẽ quy tội chủ quan, anh MT đang cố chứng minh mình có kiến thức hơn Nguyên Giác và thầy TNT. Tiếc là vì anh MT không biết chữ Pali mà lại thích dạy đời thầy TNT, bài viết của anh MT đã thể hiện ác ý và nhiều sai sót. Qua bài viết ngắn này, tôi mong rằng MT nên cẩn trọng hơn, không nên vội chụp mũ và quy tội sai người và sai tình huống, khi chưa nghiên cứu đến nơi đến chốn. Việc làm của anh MT đã gây hoang mang cho người đọc về một tác phẩm mà theo tác giả Nguyên Giác: “Đây là một tác phẩm hiếm gặp, được biên soạn công phu bởi Thầy Thích Nhật Từ, thích hợp và cần thiết cho hầu hết các gia đình cư sĩ Việt Nam. Có thể nói, đây là một tuyển tập kinh cực kỳ quan trọng, vì nơi đây biên dịch lại tất cả những lời dạy thích nghi của Đức Phật để xây dựng một xã hội hòa hài, người người tôn trọng và yêu thương nhau, và trong tận cùng là xa lìa tham sân si để chứng ngộ Niết bàn.”[2]
Theo tôi, các phê phán sai lầm của anh MT về thầy TNT là do anh MT không nắm vững ba vấn đề chính sau đây:
1) Angulimala chỉ là biệt hiệu, chứ không phải là danh từ riêng
Angulimala trong bài Kinh được thầy TNT dịch không phải là một “danh từ riêng” như anh MT đã nhầm lẫn. Nguyên nhân nhầm lẫn này là do anh MT không biết chữ Pali, nhưng lại làm công việc “thích sửa lưng” thầy TNT, một tu sĩ mà tôi tin rằng hiểu vững hơn MT về vấn đề này.
Thực chất, từ “Angulimala” chỉ là một biệt hiệu. Trong Kinh Pali, Angulimala là con trai của ông Bhaggava và bà Mantani. Kinh Trung bộ và các kinh Pali không nói đến tên thật của Angulimala là ai. Biệt hiệu “Angulimala” được quần chúng đặt theo hành động sát nhân kỳ quái của anh này. Sau khi giết người, anh này chặt ngón tay rồi xâu các ngón tay của các nạn nhân thành một vòng tròn, đeo vào cổ như một vòng hoa trang sức.
– Từ “angulimala” trong tiếng Pali được kết hợp bởi 2 thành tố “anguli” và “mala”. Từ “anguli” có nghĩa đen là “ngón tay” và “mala” có nghĩa đen là “vòng đeo”, “vòng hoa”, “vòng chuổi”, “xâu chuổi”… Khi kết hợp hai thành tố lại, “angulimala” có nghĩa đen là “[người đeo] vòng cổ được kết bằng các ngón tay người” (finger necklace) hoặc “[người đeo] vòng hoa được kết bằng các ngón tay người” (finger garland). Đại đức Thanissaro Bhikkhu dịch Kinh Angulimala thuộc Kinh Trung bộ 86 ghi trong đoạn đầu của kinh như sau: “He wore a garland (mala) made of fingers (anguli)” có nghĩa là “anh ta đeo vòng hoa trên cổ được làm bằng các ngón tay người”.[3] So sánh giữa hai cách dịch, thầy TNT dịch gọn hơn mà vẫn đủ nghĩa.
Vì là biệt hiệu, người ta có khuynh hướng viết hoa “Angulimala”. Do đó, “angulimala” này không phải là danh từ riêng như “Moggalanna” (phiên âm là Mục-kiền-liên). Dựa vào điều nêu trên, việc thầy TNT dịch biệt hiệu “Angulimala” trong tiếng Pali thành “Vòng Hoa Tay Người” (viết hoa) trong tiếng Việt là sát nghĩa đen của từ Pali gốc. Trong tiếng Việt, “angulimala” có thể được dịch thành “Vòng Đeo Tay Người”, “Tràng Hoa Tay Người”, “Xâu Chuỗi Tay Người” đều được cả, vì các cụm từ trên đều diễn tả đúng nghĩa đen của từ Pali gốc.
2) Danh từ riêng và biệt hiệu: Dịch nghĩa được hay không?
Câu trả lời là tùy quan điểm. Về cấu trúc từ, biệt hiệu “angulimala” (vòng hoa tay người) giống như biệt hiệu “Anathapindika” mà Hán Việt thường dịch sát nghĩa đen là Cấp Cô Độc. Từ ghép “Anathapindika” có nghĩa đen là “người trợ cấp, giúp đỡ những người cô đơn, cơ nhỡ” là biệt hiệu cao quý mà quần chúng thường gọi và tôn vinh cư sĩ Tu Đạt.
Các dịch giả Trung Quốc có khuynh hướng dịch nghĩa các danh từ riêng và biệt hiệu ra chữ Hán, để người đọc dễ hiểu ý nghĩa và dễ nhớ. So với các vị tiền bối dịch kinh nổi tiếng như ngài Cưu-ma-la-thập và ngài Huyền Trang của Trung Quốc, thầy TNT không phải là người đầu tiên làm công việc này. Xin đơn cử, tôn hiệu “Avalokiteśvara” trong tiếng Sanskrit có nghĩa đen là “[Bồ-tát] người nhìn xuống [thế gian]” (Lord who looks down) được các dịch giả Trung Quốc dịch nghĩa thành hai từ khác nhau: a) “Quán Thế Âm” (觀世音, Guānshìyīn), có nghĩa đen là “[vị Bồ-tát] quan sát âm thanh [kêu cứu] của thế gian, như trong Phẩm Phổ Môn thứ 25 thuộc Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (bản dịch của Cưu-ma-la-thập) và “Quán Tự Tại” ( 觀自在, Guānzìzài), có nghĩa là “[vị Bồ-tát] quán chiếu một các tự tại” như trong Bát-nhã tâm kinh, bản dịch của ngài Huyền Trang.
Angulimala trong tiếng Pali thường được phiên âm trong tiếng Hán Việt là Ương-quật-ma-la (央掘魔羅). Vì là một biệt hiệu, việc thầy TNT dịch sát nghĩa của từ “Angulimala” ra tiếng Việt là “Vòng Hoa Tay Người”, theo tôi, là điều không có gì là sai, rất ngắn gọn nhưng vẫn đủ nghĩa.
3) Angulimala có thể được gọi là kẻ khủng bố?
Trong các bản dịch tiếng Anh, các dịch giả mô tả về “Angulimala” như là tên cướp (bandit), kẻ giết người, tên sát nhân (killer), kẻ vấy máu (bloody-handed one), kẻ không có tình thương với chúng hữu tình (showing no mercy to living beings). Trong tác phẩm Kinh Phật cho người tại gia, thầy TNT mô tả Angulimala là “kẻ khủng bố Vòng Hoa Tay Người.” Tôi cho rằng Thầy TNT không đổi tên nhân vật như MT đã hiểu sai (như tôi đã phân tích ở trên). Thầy TNT dùng khái niệm hiện đại có hàm nghĩa Angulimala “giết người một cách man rợ, gây sợ hãi” tại thành Xá-vệ, nhằm thể hiện hậu quả xã hội mà “Angulimala” đã tạo ra qua việc “giết người rồi xâu kết các ngón tay của nạn nhân thành xâu chuổi, đeo lên cổ của y”. Hành động sát nhân của “Angulimala” quả thật đáng sợ hãi, gây ra sự khủng bố xã hội trong thời của vua Ba-tư-nặc, người trị vì nước Xá-vệ.
Trong bản sớ giải của Trưởng lão Tăng kệ, tên sát nhân đáng sợ “Angulimala” còn được gọi bằng một biệt hiệu khác là “Himsaka”, có nghĩa là “kẻ bạo động”, “kẻ bạo lực”, “kẻ khủng bố” (ở nghĩa đơn giản nhất là người gây sợ hãi bằng hành động giết người). Trong ngữ cảnh xã hội hiện đại, mô tả về hành động giết người một cách man rợ, đeo vào cổ vòng hoa bằng tay người của “Angulimala” thật đáng sợ, thầy TNT dùng cụm từ “Kẻ khủng bố Vồng Hoa Tay Người” không có gì là quá đáng. Khi được đức Phật hóa độ Angulimala làm tu sĩ, kẻ sát nhân cuồng tín này được gọi là “Ahimsaka”, để đánh dấu sự “chuyển hóa nghiệp chướng” (cách dùng từ của thầy TNT) của y. “Ahimsaka” được dịch trong chữ Hán là “Vô Não”, người không não hại, người không bạo động, người hết bạo lực, người không (còn) khủng bố….
Khủng bố trong ngữ nghĩa rộng nhất bao gồm các hành động giết người, hành động bạo lực, hành động gây thương tổn mạng sống, hành động gieo rắc sợ hãi… Vậy, việc thầy TNT gọi “Angulimala” là kẻ khủng bố có bị lạc đề không? Ta hãy khảo sát 2 ngữ nghĩa của kẻ khủng bố (terrorist) trong hai quyển tự điển tiếng Anh sau đây.
Theo Từ điển “Collins English Dictionary – Complete and Unabridged”, trong ngữ cảnh quốc gia, chính trị và ngoại giao, “kẻ khủng bố là người sử dụng hành vi khủng bố, hay chủ nghĩa khủng bố, đặc biệt là như một vũ khí chính trị” (terrorist is a person who employs terror or terrorism, esp as a political weapon).[4] Theo Từ điển Quân sự và các thuật ngữ liên hệ (Dictionary of Military and Associated Terms. US Department of Defense 2005), “Kẻ khủng bố là cá nhân dùng bạo động, hành động gây khiếp sợ và sự hăm dọa nhằm đạt được một kết quả” (An individual who uses violence, terror, and intimidation to achieve a result). Theo ngữ cảnh thứ hai này, việc thầy TNT dùng từ hiện đại mô tả “Angulimala” là “kẻ khủng bố Vòng Hoa Tay Người” không hề lạc đề, nhất là khi sự mô tả hành động giết người gây sợ hãi của Angulimala gắn liền với ngữ cảnh được kinh Trung bộ ghi nhận là: “…bị nạn cướp giết của tên khủng bố Vòng Hoa Tay Người, thợ săn vấy máu, sát hại, hung tàn, không chút tình thương đối với con người.” (trích bản dịch của thầy TNT).
Phê phán của anh MT về thầy TNT cho thấy anh MT trở nên thiên cực, khi cho rằng khái niệm “kẻ khủng bố” chỉ được mô tả trong bối cảnh hoặc vì mục đích chính trị, còn các hành động giết người và gây sợ hãi vì mục tiêu nào khác và vhướng đến các kết quả khác là không thể chấp nhận. Nên nhớ, đây chỉ là ý kiến chủ quan của anh MT, còn các nhà từ điển học thì không như thế. Đây chính là sự khác biệt giữa một nhà báo (MT) và một nhà từ điển (như tác giả của Dictionary of Military and Associated Terms. US Department of Defense 2005).
4. Thay lời kết
Những điều nên trên cho thấy anh MT hoặc do tư thù với thầy TNT hoặc do háo thắng đã tấn công thầy TNT bằng những lời lẽ thiếu thiện chí của một Phật tử. Dù phát xuất từ động cơ nào, việc anh MT phê phán thầy TNT một cách chủ quan, do thiếu hiểu biết, hoặc do hiểu chưa tới nơi tới chốn, nên tránh trong tương lai, để không rơi vào tình trạng “phe ta đánh phe mình”, một kiểu “nhiệt tình thành phá hoại.”
Mong sao anh MT nên lấy đây làm bài học kinh nghiệm để không tiếp tục xúc phạm đến thầy TNT nói riêng và các Tăng Ni khác nói chung, như anh MT đã từng viết và đăng trong Phật tử Việt Nam và trang Facebook của riêng mình. Tôi xin trích ra đây câu nói tôi đọc đâu đó, đã quên tác giả, để cùng chiêm nghiệm: “Mặt trời giữa trưa thực sự thì không cần khoe ánh sáng như những con đom đóm về đêm!”
[1] http://www.phattuvietnam.net/diendan/28845-ch%E1%BA%A5t-v%E1%BA%A5n-tt.-nh%E1%BA%ADt-t%E1%BB%AB-v%E1%BB%81-t%E1%BB%B1-%C3%BD-%C4%91%E1%BB%95i-t%C3%AAn-nh%C3%A2n-v%E1%BA%ADt-trong-kinh-ph%E1%BA%ADt.html
[2] http://thuvienhoasen.org/a19414/kinh-phat-cho-nguoi-tai-gia-can-co-cho-moi-phat-tu
[3] http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.086.than.html
[4] Collins English Dictionary – Complete and Unabridged © HarperCollins Publishers 1991, 1994, 1998, 2000, 2003
QUAN TÂM VÀ HỖ TRỢ
Với sự hộ trì của chư tôn đức Tăng Ni, hàng cư sĩ Phật tử, trong suốt 10 năm qua, trang Thông tin Truyền thông Phật giáo Quảng Nam (Truyền hình Phật giáo QCB) do Ban Thông tin Truyền thông GHPGVN tỉnh Quảng Nam thành lập, vận hành và quản lý đã chuyển tải các hoạt động Phật sự của tỉnh nhà, những sản phẩm tin tức, chương trình tu học, chuyên đề Phật pháp mang thông điệp Từ bi - Trí tuệ và năng lượng tốt đẹp đến với cộng đồng những người yêu mến đạo Phật trong và ngoài tỉnh. Xây dựng hình ảnh Phật giáo Quảng Nam với phương châm tốt đời đẹp đạo!.
Hiện nay, Kênh truyền hình Phật giáo QCB (QCB) có trên 20 nhân sự là phóng viên, Ban biên tập và các bộ phận khác với kinh phí hoạt động hết sức hạn hẹp, vì vậy, để QCB tiếp tục duy trì hoạt động và mang lại nhiều thành quả trong công tác thông tin truyền thông Phật giáo, Ban Thông tin Truyền thông Phật giáo tỉnh Quảng Nam tha thiết mong mỏi quý chư tôn đức Tăng Ni, quý thiện nam, tín nữ gần xa phát tâm thiện lành trợ duyên cho hoạt động của Kênh.
Ban Thông tin Truyền thông Phật giáo tỉnh Quảng Nam xin trân trọng từng tấm lòng san sẻ, tiếp sức trong việc hoằng pháp lợi sanh của tất cả quý vị!.
Quý vị hỗ trợ qua số tài khoản:
Số tài khoản: 1036037035
Chủ tài khoản: Đoàn Công Tùng (Thích Thắng Thiện)
Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Bắc Đà Nẵng
Nội dung: Ủng hộ QCB